Dạy chữ để mở lối sinh kế
Những lớp học ban đêm thắp sáng bằng bóng điện công suất nhỏ, đặt giữa nhà văn hóa bản hoặc trong những phòng học mượn tạm, đang lặng lẽ mở ra một cánh cửa khác cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Nghệ An. Ở đó, từng con chữ được đánh vần chậm rãi, từng phép tính được viết nắn nót, từng bàn tay chai sạn vì nương rẫy tập cầm bút như cầm một công cụ mới để bước vào đời sống hiện đại. Hoạt động xóa mù chữ không chỉ giúp người dân biết đọc, biết viết, mà còn trở thành một cấu phần quan trọng trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025, đang được tỉnh Nghệ An triển khai bền bỉ, kiên trì.
Nghệ An đã huy động sự vào cuộc của các cấp, ngành trong nỗ lực xóa mù chữ vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Ở bản Phồng, xã Tam Hợp, cuộc sống khó khăn và giao thông cách trở khiến nhiều người dân, đặc biệt là phụ nữ, chưa từng có cơ hội đến trường. Từ thực tế ấy, Đồn Biên phòng Tam Hợp đã phối hợp với chính quyền địa phương và Trường Tiểu học Tam Hợp tổ chức các lớp xóa mù chữ dành cho chị em trong bản. Lớp học không chỉ là nơi học đọc, học viết, mà còn là không gian sẻ chia, nơi những người phụ nữ lần đầu cầm bút tìm lại sự tự tin của chính mình.
Tại xã Na Ngoi, nơi hơn 90% dân số là đồng bào Mông, Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Na Ngoi 2 mở lớp xóa mù chữ ở bản Huồi Xài. Lớp học có 12 học viên, độ tuổi khác nhau, trình độ cũng khác nhau. Có người chưa từng biết chữ, có người từng học nhưng đã quên, có học viên tiếp thu nhanh, mỗi buổi học được vài chữ cái, nhưng cũng có người phải mất nhiều ngày mới viết tròn một chữ.
Lớp xóa mù chữ tổ chức ở xã Na Ngoi
Trong khi đó, ở bản Pù Quặc 2, lớp xóa mù chữ có 11 học viên nữ, đa phần đã lớn tuổi. Giáo viên phải sử dụng phương pháp giảng dạy linh hoạt, thậm chí giảng dạy song ngữ tiếng Việt và tiếng Mông để học viên dễ hiểu, dễ nhớ.
Còn ở Tri Lễ, xã miền núi biên giới cách trung tâm tỉnh Nghệ An hơn 200km về phía Tây Bắc, nơi sinh sống của đồng bào Thái, Khơ Mú, Mông, địa hình chia cắt và cuộc sống nghèo khó từng khiến nhiều người phải bỏ học giữa chừng. Thiếu hụt tri thức trở thành rào cản lớn đối với nỗ lực cải thiện sinh kế, khiến cái đói, cái nghèo dễ dàng đeo bám.
Từ năm 2017 đến nay, để phục vụ mục tiêu xây dựng nông thôn mới, Đoàn Kinh tế Quốc phòng 4 đã phối hợp với ngành giáo dục và chính quyền địa phương mở hơn 20 lớp xóa mù chữ, chống tái mù và phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, giúp trên 500 người dân biết chữ.
Điều đáng chú ý là các lớp học không chỉ dừng lại ở việc dạy đọc, dạy viết. Trong mỗi buổi học, giáo viên còn hướng dẫn người dân cách chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi phù hợp với điều kiện địa phương. Những phép cộng, phép trừ được gắn với việc tính tiền khi đi chợ; điện thoại thông minh được đưa vào lớp học như một công cụ để nhắn tin, tìm kiếm thông tin phục vụ sản xuất. Con chữ vì thế trở nên sống động, thiết thực và gắn chặt với đời sống hàng ngày.
Chính sách làm nền cho xã hội học tập
Bước sang giai đoạn mới của các chương trình mục tiêu quốc gia, Nghệ An đặt mục tiêu nâng tỷ lệ người trong độ tuổi 15 - 60 đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2 lên 99,35%. Để hiện thực hóa mục tiêu này, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn cho công tác xóa mù chữ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ngày 7/7/2023, HĐND tỉnh Nghệ An ban hành Nghị quyết số 10 quy định một số nội dung và mức chi thực hiện công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục theo Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030”. Theo đó, người dân tham gia học xóa mù chữ được hỗ trợ với mức chi tối đa 1,8 triệu đồng/người/chương trình. Bên cạnh đó là các khoản hỗ trợ cho tổ chức lớp học, thắp sáng ban đêm, mua sổ sách theo dõi, văn phòng phẩm và công tác tuyên truyền, vận động người mù chữ, tái mù chữ ra lớp.
Không chỉ người học, những người trực tiếp tham gia công tác xóa mù chữ cũng được hưởng chế độ hỗ trợ cụ thể. Cán bộ, giáo viên, người làm công tác quản lý ở các cấp được hỗ trợ hàng tháng, với mức chi phù hợp theo từng khu vực, đặc biệt ưu tiên các xã khu vực III và các cơ sở giáo dục đóng trên địa bàn khó khăn. Nguồn kinh phí thực hiện được bảo đảm từ ngân sách nhà nước theo phân cấp, nguồn Trung ương bổ sung từ chương trình mục tiêu quốc gia, cùng sự huy động từ các nguồn tài trợ hợp pháp khác.
Về chuyên môn, chương trình xóa mù chữ được thiết kế với một kỳ học gồm 200 tiết, mỗi buổi học ban đêm 4 tiết. Học viên được ôn tập qua ba kỳ, từ nhận biết chữ cái, đọc thành thạo đến thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia cơ bản và được cấp chứng nhận hoàn thành chương trình. Ngành Giáo dục Nghệ An đồng thời tổ chức hàng chục lớp tập huấn, bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ giáo viên cắm bản, cấp phát tài liệu, học liệu phù hợp với văn hóa và ngôn ngữ bản địa.
Từ những nỗ lực đồng bộ ấy, Nghệ An đã đạt nhiều kết quả quan trọng, được công nhận đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tình trạng mù chữ, tái mù chữ vẫn còn rải rác ở các bản vùng sâu, vùng xa; việc huy động và duy trì sĩ số lớp học gặp nhiều khó khăn do học viên chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi lao động, lại phải gánh vác công việc gia đình, nương rẫy.
Lớp xóa mù chữ do Bộ đội Biên phòng tổ chức ở xã Tam Hợp, Nghệ An
Trong bối cảnh đó, ngành Giáo dục Nghệ An tiếp tục xác định việc tổ chức và duy trì lớp học là nhiệm vụ then chốt, giao cho các trường tiểu học trên địa bàn chủ trì, đồng thời tăng cường phối hợp với các tổ chức, đoàn thể và lực lượng xã hội tại cơ sở. Thời gian học được bố trí linh hoạt, phù hợp với mùa vụ, nhịp sinh hoạt của người dân. Giáo viên được lựa chọn là những người tâm huyết, am hiểu phong tục, tập quán và ngôn ngữ bản địa, áp dụng phương châm "cầm tay chỉ việc", gắn bài học với thực tế đời sống.
Xóa mù chữ ở Nghệ An không chỉ là một nhiệm vụ giáo dục, mà là một chiến lược phát triển con người, đặt nền móng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Khi con chữ được “phủ xanh” trên những rẻo cao, đó cũng là lúc tri thức trở thành nguồn lực, giúp người dân tự tin hơn trong sản xuất, trong tiếp cận chính sách và trong hành trình vươn lên thoát nghèo bền vững.