Đóng

Xuất khẩu gạo giữ vững vị thế nhưng chịu áp lực giảm giá trị

Xuất khẩu gạo Việt Nam tiếp tục duy trì vị trí thứ hai thế giới, song kim ngạch đang chịu sức ép giảm do giá bán bình quân đi xuống và biến động từ thị trường nhập khẩu.

Giữ vững lượng xuất khẩu gạo nhưng giá trị sụt giảm trong 8 tháng

Thông tin về tình hình thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản nói chung, gạo nói riêng, ông Trần Gia Long - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho hay, khối lượng xuất khẩu gạo tháng 8 năm 2025 ước đạt 770 nghìn tấn với giá trị đạt 344,1 triệu USD. Từ đó, đưa tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 8 tháng năm 2025 đạt 6,3 triệu tấn và 3,17 tỷ USD, tăng 2,2% về khối lượng nhưng giảm 17,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá gạo xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2025 ước đạt 504,9 USD/tấn, giảm 19,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Xuất khẩu gạo 8 tháng năm 2025 đạt 3,17 tỷ USD. Ảnh minh họa.

Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,4%. Gana và Bờ Biển Ngà là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 11,7% và 10,7%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Bangladesh với mức tăng 188,4 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Malaysia với mức giảm 54,4%.

Về tình hình thị lúa gạo thế giới, tháng 8/2025, trên thị trường gạo châu Á, giá gạo xuất khẩu đồng loạt giảm. Giá gạo Ấn Độ chạm kể từ tháng 8/2022. Giá gạo Thái Lan giảm do nhu cầu ảm đạm. Trước đó, gạo Việt Nam tăng giá do người mua tại Philippines tích trữ trước thời hạn tạm dừng nhập khẩu, sau đó quay đầu giảm trở lại.

Cụ thể, tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm giảm 16 USD/tấn xuống còn 354 USD/tấn; gạo trắng 100% loại B giảm 16 USD/tấn xuống 364 USD/tấn; gạo 25% tấm giảm mạnh 20 USD/tấn xuống chỉ còn 333 USD/tấn. Trong khi đó, tại Việt Nam, gạo 5% ghi nhận xu thế tăng lên mức 395 USD/tấn - mức cao nhất trên thị trường vào ngày 20/8, sau đó quay đầu giảm, hiện ở mức 389 USD/tấn; gạo 25% tấm tăng lên 371 USD/tấn, hiện tại giảm xuống 367 USD/tấn; gạo 100% tấm tăng lên 339 USD/tấn, hiện tại giảm còn 333 USD/tấn; gạo thơm thượng hạng Jasmine tăng lên 561 USD/tấn, hiện tại giảm còn 545 USD/tấn.

Tại Ấn Độ, giá gạo 5% tấm giảm 2 USD/tấn xuống 376 USD/tấn; gạo 25% tấm giảm 2 USD/tấn xuống 360 USD/tấn; gạo đồ 5 tấm Stxd giảm 11 USD/tấn xuống còn 364 USD/tấn. Tại Pakistan, gạo 5% tấm giảm mạnh 17 USD/tấn xuống còn 353 USD/tấn; gạo 25% tấm giảm 14 USD/tấn xuống 335 USD/tấn; gạo 100% tấm Stxd giảm 10 USD/tấn xuống 307 USD/tấn.

Tính bình quân tháng 8/2025, mặt hàng gạo xuất khẩu chủ chốt 5% tấm của Thái Lan giảm 17 USD/tấn, Việt Nam giảm 12 USD/tấn, Pakistan giảm mạnh 26 USD/tấn so với giá bình quân tháng 7/2025.

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, năm 2025, giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo có xu hướng giảm sau một thời gian dài tăng trưởng vượt bậc trong năm 2024. Giá gạo xuất khẩu bình quân giảm so với năm 2024 do tồn kho cao tại Philippines và Indonesia, cạnh tranh với các nước sản xuất lớn như Ấn Độ, Thái Lan.

Thêm vào đó, thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là Philippines mới có lệnh ngừng nhập khẩu gạo trong vòng 60 ngày kể từ ngày 1/9 nhằm bảo vệ sản xuất nội địa. Đây có thể sẽ là yếu tố tác động trong ngắn hạn khi các hợp đồng bị tạm dừng, gây dư cung và giảm giá trị xuất khẩu.

Liên quan đến vấn đề này, ông Lê Bá Anh, Phó cục trưởng Cục Chất lượng, chế biến và phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, Tổng thống Philippines đã ban hành Sắc lệnh 93, tạm dừng nhập khẩu gạo trong vòng 60 ngày nhằm bảo vệ mùa vụ thu hoạch trong nước. Tuy nhiên, sắc lệnh này cũng yêu cầu Bộ Nông nghiệp Philippines sau 30 ngày phải đánh giá lại tình hình và có thể rút ngắn thời hạn nếu cần thiết.

“Về phía Việt Nam, ngày 1/9, Bộ Công Thương đã ban hành văn bản gửi các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất khẩu gạo, trong đó đề nghị các doanh nghiệp chủ động thu mua dự trữ để ổn định giá nguyên liệu gạo xuất khẩu trong thời gian tới. Bên cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, cần chủ động tìm kiếm thị trường tiềm năng mới”, ông Lê Bá Anh nói.

Gạo Việt cần đầu tư bài bản để vươn xa hơn trên thị trường quốc tế

Liên quan đến xuất khẩu gạo, ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho hay, theo số liệu, năm 2024 Việt Nam xuất khẩu khoảng 4,3 triệu tấn gạo sang Philippines, cao hơn con số 2,92 triệu tấn công bố trước đó. Đây là thị trường lớn, thể hiện vai trò quan trọng của gạo Việt Nam đối với an ninh lương thực khu vực và thế giới.

"Đến hết tháng 8/2025, giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt hơn 3,17 tỷ USD, với giá bán bình quân khoảng 504 USD/tấn, giá thành sản xuất lúa ở mức hơn 4.000 đồng/kg, với mức giá bán như hiện nay, người trồng lúa có lãi 25 – 30%", ông Phùng Đức Tiến chia sẻ.

Cũng theo ông Phùng Đức Tiến, những năm gần đây, sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam liên tục tăng. Cụ thể, năm 2022 khoảng 6,3 triệu tấn, năm 2023 đạt 7,9 triệu tấn, năm 2024 lên tới hơn 9 triệu tấn. Điều này cho thấy tiềm năng và vị thế ngày càng lớn của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó, với sự chỉ đạo của Chính phủ, sự vào cuộc của các Bộ, ngành như Bộ Công Thương trong việc tích cực đàm phán mở cửa nhiều thị trường tiềm năng như vùng Vịnh, Ai Cập, thị trường Halal và xúc tiến xuất khẩu gạo sang Singapore,… sẽ mở thêm cách cửa thị trường cho ngành lúa gạo Việt Nam.

Tuy nhiên, để duy trì và nâng cao vị thế của ngành trên thị trường quốc tế, ông Phùng Đức Tiến cho hay, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các bộ, ngành trong quản lý giống, sản xuất, chế biến và xuất khẩu. “Chúng ta đã có giống lúa chất lượng cao, quy trình canh tác ngày càng chuẩn hóa, nhưng vẫn cần sự đầu tư đồng bộ, bài bản hơn để gia tăng giá trị và khẳng định thương hiệu gạo Việt”, ông Phùng Đức Tiến nói.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS. TS Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, nhận định, sau gần 3 quý của năm 2025 xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn giữ vị trí thứ hai thế giới, dù còn nhiều khó khăn.

Hiện định hướng của các bộ, ngành là phát triển gạo chất lượng cao, thâm nhập các thị trường khó tính như EU, đây là định hướng hoàn toàn đúng. Thực tế, một số doanh nghiệp như Lộc Trời đã thành công bước đầu khi đưa gạo chất lượng cao vào EU, đáp ứng được các tiêu chuẩn xanh, gạo hữu cơ và các yêu cầu kiểm định khắt khe. Dù sản lượng mới chỉ vài trăm tấn, nhưng đó là minh chứng cho khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam tại thị trường vốn đã có những đối thủ mạnh như Italy – nơi được coi là “vựa lúa” của châu Âu.

Để khẳng định vị thế, chúng ta cần chiến lược rõ ràng, hoặc tạo sự khác biệt, hoặc cạnh tranh trực diện. Việt Nam hiện không thiếu công nghệ, vốn hay nhân lực. Điều cần thiết là sự đầu tư bài bản, đồng bộ, thay vì nhỏ giọt như hiện nay.

“Tôi cho rằng phải có sự chung tay của các nhà khoa học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý để hình thành cơ chế thuận lợi, phát triển gạo hữu cơ, xanh, giàu dinh dưỡng, hướng tới phân khúc cao cấp. Khi chiếm lĩnh được thị trường châu Âu, gạo Việt sẽ có cơ hội mở rộng nhanh chóng sang các thị trường khó tính khác”, ông Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh.

Mục tiêu kế hoạch xuất khẩu năm 2025 ước đạt 5,7 tỷ USD, với kết quả 8 tháng thu về 3,17 tỷ USD. Như vậy, 4 tháng còn lại của năm, ngành hàng này cần thu về 2,53 tỷ USD. Do tác động của biến động thị trường lúa gạo toàn cầu, trước đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đưa ra nhận định, khả năng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng gạo có thể sụt giảm hơn so với mục tiêu đặt ra, ước tính chỉ đạt khoảng 5,5 tỷ USD, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm 2024.

Nguyễn Hạnh