Đóng

Xuất khẩu thủ công mỹ nghệ: Thách thức lớn từ nguồn nguyên liệu và logistics

Ngành thủ công mỹ nghệ tận dụng cơ hội từ hội nhập và FTA để mở rộng xuất khẩu, tuy nhiên xanh hóa, nguồn nguyên liệu, quy mô và logistics đang là thách thức lớn.

Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với bà Hà Thị Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và Làng nghề Hà Nội xung quanh vấn đề này.

Xanh hóa đang là thách thức

- Các hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, thưa bà?

Bà Hà Thị Vinh: Ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng là một lĩnh vực đặc thù, khác biệt rõ rệt so với nhiều ngành sản xuất khác. Phần lớn các cơ sở sản xuất tập trung tại các làng nghề, với quy mô nhỏ và mang tính cộng đồng cao. Tuy nhiên, chính từ những làng nghề này đã ra đời những sản phẩm chứa đựng “linh hồn” của dân tộc, kết tinh giá trị văn hóa, bản sắc và tinh thần sáng tạo đặc trưng của người Việt.

Làng nghề mây tre đan Phú Vinh có lịch sử hình thành và phát triển hơn 400 năm. Ảnh: Nguyễn Tuyền

Việc đưa những sản phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa ra thị trường quốc tế là một hành trình vừa thú vị, vừa đầy thử thách. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều quốc gia được đánh giá là cơ hội quý giá. Đây là điều kiện để các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và đưa sản phẩm Việt Nam đến bạn bè năm châu.

Tuy nhiên, các xung đột và chiến tranh trên thế giới đang tác động mạnh đến thương mại quốc tế, đặc biệt tại các thị trường lớn như EU. Khác với những ngành hàng thiết yếu như dệt may hay da giày, sản phẩm thủ công mỹ nghệ chủ yếu phục vụ nhu cầu trang trí và thưởng thức nghệ thuật, không phải mặt hàng thiết yếu trong đời sống hằng ngày. Khi kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, người tiêu dùng thường cắt giảm chi tiêu cho nhóm sản phẩm này, tạo ra thách thức lớn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Trung Quốc với năng lực sản xuất lớn và chi phí thấp, tiếp tục là đối thủ cạnh tranh đáng gờm trên thị trường quốc tế. Trong đó, ngành gốm sứ, một lĩnh vực điển hình trong thủ công mỹ nghệ, đang chứng kiến sự cạnh tranh gay gắt. Trung Quốc sở hữu các nhà máy quy mô lớn, hiện đại và chi phí sản xuất thấp. Trong khi đó, các cơ sở sản xuất của Việt Nam vẫn chủ yếu nhỏ lẻ, phân tán tại các làng nghề. Do vậy, dù được nhiều khách hàng quốc tế quan tâm, doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc đáp ứng các đơn hàng lớn và yêu cầu đồng nhất về chất lượng. Đây vừa là cơ hội để phát triển, vừa là thách thức cần vượt qua.

Trong bối cảnh xu hướng tiêu dùng xanh và phát triển bền vững trở thành tiêu chuẩn bắt buộc toàn cầu, các thị trường lớn như châu Âu và Mỹ ngày càng đặt ra nhiều yêu cầu khắt khe hơn. Doanh nghiệp muốn xuất khẩu phải đáp ứng các chứng chỉ về môi trường và trách nhiệm xã hội, như SA 8000 hay VSCI. Những chứng chỉ này không chỉ là cam kết phát triển bền vững, mà còn là “giấy thông hành” để sản phẩm Việt tiếp cận các thị trường cao cấp.

Tuy nhiên, việc đạt được các tiêu chuẩn này đòi hỏi nhà máy phải có quy mô đủ lớn, quy trình sản xuất hiện đại và hệ thống quản trị chuyên nghiệp, một thách thức lớn đối với phần lớn các cơ sở thủ công mỹ nghệ Việt Nam hiện nay.

- Việc tuân thủ các quy định giảm phát thải khí nhà kính và sử dụng nguyên liệu thân thiện môi trường đang đặt ra những thách thức gì cho doanh nghiệp, thưa bà?

Bà Hà Thị Vinh: Để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất xanh và phát triển bền vững, các doanh nghiệp trong ngành gốm sứ và thủ công mỹ nghệ xuất khẩu buộc phải đầu tư nguồn vốn lớn và dành diện tích mặt bằng đáng kể cho hệ thống sản xuất, xử lý chất thải cũng như các công trình phụ trợ. Đây là thách thức không nhỏ đối với những cơ sở vừa và nhỏ, vốn chiếm phần lớn trong ngành.

Bà Hà Thị Vinh, Chủ tịch Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ và Làng nghề Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Hạnh

Đặc biệt, việc tuân thủ các quy định về giảm phát thải khí nhà kính xây dựng hệ thống xử lý chất thải đạt chuẩn và sử dụng nguyên liệu thân thiện môi trường đã trở thành yêu cầu bắt buộc. Không chỉ vậy, các nhà nhập khẩu quốc tế còn yêu cầu sản phẩm phải được đóng gói bằng vật liệu bao bì thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, với đặc thù sản phẩm gốm sứ dễ vỡ, doanh nghiệp Việt Nam buộc phải sử dụng nhiều lớp bao bì bảo vệ, khiến việc vừa đảm bảo an toàn vận chuyển vừa đáp ứng tiêu chí “xanh” trở nên khó khăn.

Hiện nay, các doanh nghiệp đang nỗ lực tìm kiếm nguồn nguyên liệu tái chế mới, như giấy tổ ong hoặc bìa tổ ong, đây là những vật liệu đang là xu hướng tại nhiều nước. Tuy nhiên, nguồn cung trong nước còn hạn chế, chi phí cao, khiến việc chuyển đổi sang vật liệu thân thiện môi trường gặp nhiều trở ngại.

Mặc dù Việt Nam có trữ lượng nguyên liệu gốm sứ khá dồi dào, công tác quản lý và khai thác tại các mỏ vẫn chưa thật sự hiệu quả. Tình trạng này dẫn đến nguồn cung và chất lượng nguyên liệu không ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Trong bối cảnh này, nhiều doanh nghiệp buộc phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, dẫn đến chi phí cao hơn và giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đây cũng là một thách thức lớn đối với ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam.

Một điểm đặc thù khác là vấn đề logistics. Theo tiêu chuẩn quốc tế, một container 20 feet có thể chứa 24–28 tấn hàng, nhưng khi vận chuyển nội địa tại Việt Nam, quy định chỉ cho phép 20–22 tấn. Điều này buộc doanh nghiệp phải dỡ hàng tại cảng và vận chuyển tiếp từng phần, làm chi phí logistics tăng đáng kể.

Bên cạnh đó, sản xuất thủ công mỹ nghệ còn phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, phòng cháy chữa cháy, quản lý lao động và các quy định pháp lý khác. Để đáp ứng các yêu cầu này, doanh nghiệp cần có nhà máy đạt quy mô tương đối, với cơ sở vật chất và hệ thống quản lý đầy đủ. Trong khi đó, phần lớn các cơ sở sản xuất Việt Nam vẫn tập trung tại làng nghề, với quy mô nhỏ và rất nhỏ, khiến việc đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trở thành một thách thức lớn.

Xây dựng mô hình làng nghề điển hình

- Nhà nước cần đóng vai trò như thế nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc triển khai các mô hình điển hình đạt chuẩn xuất khẩu, thưa bà? 

Bà Hà Thị Vinh: Mặc dù thị trường quốc tế vẫn còn rất nhiều dư địa cho ngành thủ công mỹ nghệ, nhưng để đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu, các doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức. Những khó khăn này không chỉ liên quan đến quy mô sản xuất, mà còn về quản lý và năng lực vận hành, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững của toàn ngành.

Các đại biểu tham quan sản phẩm làng nghề tại Điểm trưng bày, giới thiệu và quảng bá sản phẩm OCOP Thủ đô (số 176 đường Quang Trung, phường Hà Đông, TP. Hà Nội). Ảnh: Nguyễn Hạnh

Để vượt qua rào cản này, chúng tôi kiến nghị xây dựng các mô hình điển hình tại các vùng làng nghề, đặc biệt đối với những ngành hàng có tiềm năng xuất khẩu lớn. Trong mô hình này, Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ”, hỗ trợ mặt bằng, thiết bị, đồng thời tạo điều kiện để doanh nghiệp triển khai sản xuất đạt chuẩn quốc tế. Việc mời các chuyên gia tư vấn, hướng dẫn sẽ giúp hình thành các mô hình đủ điều kiện xuất khẩu, từ đó các doanh nghiệp nhỏ hơn có thể học hỏi, chuẩn hóa quy trình và nâng cao năng lực cạnh tranh.

Bên cạnh đó, công tác xúc tiến thương mại đóng vai trò then chốt. Ngành thủ công mỹ nghệ có đặc thù riêng, không thể chỉ dựa vào các kênh thương mại điện tử. Việc tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại quốc tế, tham gia các hội chợ lớn, gặp gỡ trực tiếp các đối tác nước ngoài là cần thiết để mở rộng thị trường và tăng cơ hội ký kết hợp đồng.

Hiện nay, các doanh nghiệp kỳ vọng sự hỗ trợ của Bộ và TP. Hà Nội trong việc bố trí ngân sách tham gia các hội chợ quốc tế quan trọng. Tuy nhiên, cơ chế tổ chức hiện nay chưa thực sự hiệu quả. Trước đây, doanh nghiệp thường được bố trí trong không gian chung, mỗi đơn vị chỉ là một bàn nhỏ, chưa tạo được sự chuyên nghiệp mà các nhà nhập khẩu quốc tế mong đợi. Do đó, chúng tôi kiến nghị tập trung hỗ trợ những doanh nghiệp đủ năng lực xuất khẩu, bố trí gian hàng tiêu chuẩn quốc tế, bày trí gọn gàng, chuyên nghiệp, nhằm tạo ấn tượng tốt với khách hàng.

Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc tổ chức các hội chợ quốc tế ngay tại Việt Nam. Trước đây, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh từng tổ chức các hội chợ quốc tế ngay tại Việt Nam hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiếp cận khách quốc tế mà không tốn nhiều chi phí. Một lợi thế khác là khách tham dự có thể trực tiếp tham quan nhà máy sản xuất, đánh giá tiềm năng doanh nghiệp, từ đó nâng cao cơ hội ký kết hợp đồng.

Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, các hội chợ tại Hà Nội dù mang quy mô quốc tế nhưng chưa đạt hiệu quả cao trong việc thu hút khách nước ngoài. Vì vậy, việc xây dựng lại mô hình hội chợ, nâng cao chất lượng gian hàng VIP và khu trưng bày đạt chuẩn quốc tế là cần thiết để trở thành kênh xúc tiến thương mại hiệu quả, hỗ trợ doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Việt Nam vươn ra thị trường thế giới.

Xin cảm ơn bà!

Quy mô thị trường thủ công mỹ nghệ Việt Nam được dự báo có tốc độ tăng trưởng 8,7% trong giai đoạn 2024-2025, thấp hơn mức tăng trưởng toàn cầu. 

Nguyễn Hạnh