Đóng

10 dấu ấn ngành Công Thương giai đoạn 2021 - 2025

Giai đoạn 2021 - 2025, toàn ngành Công Thương đã đoàn kết đồng lòng, vượt lên khó khăn thách thức, đạt được những kết quả to lớn, có tính lịch sử, lập nhiều kỷ lục mới chưa từng có trong tiền lệ.

Với ngành Công Thương, 2021 - 2025 là một giai đoạn nhiều “sóng to gió lớn” chưa từng có trong lịch sử, nhưng toàn ngành đã đoàn kết đồng lòng, vượt lên khó khăn thách thức, đạt được những kết quả to lớn, có tính lịch sử, lập nhiều kỷ lục mới chưa từng có trong tiền lệ.

Giai đoạn 2021 - 2025 là nhiệm kỳ “chuyển trạng thái” của ngành Công Thương: từ xử lý tình huống và tồn đọng lịch sử sang kiến tạo chiến lược, từ tăng trưởng theo lượng sang chất - chiều sâu và liên tiếp nâng tầm vị thế quốc tế.

Dưới đây là 10 dấu ấn giai đoạn 2021 - 2025 do các cơ quan báo chí truyền thông và các đơn vị ngành Công Thương bình chọn:

1. Vượt thách thức 5 cơn gió ngược và bước đột phá tham mưu thể chế, tạo nền móng chiến lược trong kỳ nguyên mới

Trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức lớn với 5 cơn gió ngược (đại dịch Covid-19, chiến tranh cục bộ và cạnh tranh chiến lược, suy giảm kinh tế toàn cầu và đứt gãy chuỗi cung ứng, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy và chính sách thuế quan mới, thiên tai thảm họa, biến đổi khí hậu) Bộ Công Thương đã tham mưu cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách chiến lược, kịp thời, hiệu quả; nhiều nội dung chủ động dự báo sớm, đúng và trúng.

Là nhiệm kỳ đột phá mạnh mẽ về tham mưu và hoàn thiện thể chế với các nghị quyết chiến lược, các đạo luật mới và văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược mới được ban hành với số lượng kỷ lục, nhiều nội dung mang tính đột phá, tháo gỡ điểm nghẽn, mở đường cho phát triển.

 Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Đoàn công tác kiểm tra thực tế tại công trường của Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 ngày 04/5/2021.

Bộ Công Thương đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc tham mưu với Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ ban hành những nghị quyết, quyết sách lớn gắn với lĩnh vực quản lý của ngành, đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế.

Cụ thể: Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030; Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân…

Nếu như giai đoạn 2015 - 2020 trọng tâm là hoàn thiện khung pháp lý hội nhập và quản lý với các FTA và cắt giảm thủ tục kinh doanh thì giai đoạn 2021 - 2025 là giai đoạn xây dựng “thể chế dẫn dắt” với loạt luật – nghị định – quy hoạch lớn cho công nghiệp, thương mại, năng lượng và cả những lĩnh vực mới như thương mại điện tử.

Điểm khác biệt của giai đoạn 2021 - 2025 là nhịp độ và mức “độ sâu” chính sách: năm 2025 riêng mảng thể chế đã được mô tả như một năm “đột phá kỷ lục”, từ điện hạt nhân, an ninh năng lượng tới kiểm soát thương mại chiến lược… mang tính tham mưu chiến lược dài hạn tạo đường băng cho phát triển nhanh và bền vững trước một kỷ nguyên mới, tức là thể chế đi trước một nhịp so với tăng trưởng.

Cùng với đó, trong giai đoạn 2021 - 2025, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình ban hành gần 290 văn bản quy phạm pháp luật (là nhiệm kỳ có số lượng văn bản được ban hành lớn nhất). Hơn 20 chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án và chương trình phát triển các ngành, lĩnh vực quan trọng của bộ.

2. Công nghiệp phục hồi nhanh, quy mô và vị thế tăng gần gấp đôi đầu nhiệm kỳ, đặt nền móng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Giai đoạn 2021 - 2025, công nghiệp được mô tả là “phục hồi – bứt phá”, riêng năm 2025 giá trị tăng thêm công nghiệp tăng 9,5%, chế biến, chế tạo tăng 10,6% cao nhất từ trước tới nay, tạo một cú “đạp ga” tăng tốc rõ rệt so với giai đoạn trước. Về vị thế chuỗi cung ứng, giai đoạn 2021 - 2025, doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn và tỷ trọng đóng góp tăng mạnh, đây là bước chuyển từ “công xưởng gia công làm thuê” sang “mắt xích có năng lực” và từng bước tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm việc với Công ty Cổ phần Tập đoàn Hòa Phát.

So với năm 2020, quy mô nền công nghiệp Việt Nam đã mở rộng rõ rệt. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP năm 2025 duy trì trên 42%, trong đó riêng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 25% GDP (từ mức ~16% năm 2020).

Việt Nam hiện đứng thứ 4 ASEAN về quy mô kinh tế công nghiệp. Nhiều lĩnh vực công nghiệp chủ lực giữ vững vị trí cao trên bản đồ thế giới: dệt may và da giày Việt Nam duy trì Top 3 thế giới về kim ngạch xuất khẩu; điện tử và điện thoại tiếp tục là ngành mũi nhọn với kim ngạch trên 120 tỷ USD, giúp Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu điện thoại thông minh (chỉ sau Trung Quốc).

Đáng chú ý, nội lực công nghiệp quốc gia đã tăng lên: các doanh nghiệp nội địa ngày càng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đóng góp gần 50% giá trị sản xuất công nghiệp (so với ~35% năm 2020). Nhiều thương hiệu công nghiệp Việt như VinFast, Thaco, Viettel,..., đã vươn ra toàn cầu, khẳng định khả năng làm chủ công nghệ.

Sự trỗi dậy của ngành công nghiệp thể hiện qua những con số ấn tượng: GDP công nghiệp năm 2025 đạt khoảng 200 tỷ USD, tăng mạnh so với 136 tỷ USD năm 2020. Chỉ tính riêng ngành điện tử – lĩnh vực từng không đáng kể vào 2010 – nay đã trở thành ngành xuất khẩu lớn nhất Việt Nam (~100 tỷ USD), biến Việt Nam thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.

Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh, một nền kinh tế muốn trở thành cường quốc phải dựa vào trụ cột công nghiệp. Dấu ấn cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng: công nghiệp hóa đi đôi với hiện đại hóa, tạo nền tảng vững chắc để đạt mục tiêu nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030.

Trong giai đoạn này, hoàn thiện thể chế trở thành “mũi khoan” mở đường cho ngành công nghiệp. Thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, Bộ Công Thương đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến 2030 nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng của ngành, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực một cách hợp lý, hiệu quả, nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực tự chủ về sản xuất và thị trường, góp phần tăng năng lực cạnh tranh và mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế; các ngành, lĩnh vực và các địa phương cũng đã triển khai xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án tái cơ cấu theo chức năng, nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã liên tục xây dựng, sửa đổi các chính sách nền tảng: Xây dựng Chương trình phát triển bền vững ngành Dệt may, Da giày giai đoạn 2021 - 2030 (nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 115/NQ-CP và Quyết định 1643/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Chiến lược phát triển ngành Dệt May, Da Giầy Việt Nam); xây dựng, hoàn thiện Chiến lược phát triển ngành: thép, ô tô, sữa; Kế hoạch triển khai Quy hoạch khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định 333/QĐ-TTg năm 2024 đến chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ được cập nhật theo Quyết định 71/QĐ-TTg năm 2024, tạo hành lang mới cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển đến 2025 và chuẩn bị cho giai đoạn 2035.

Bộ Công Thương cũng xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển Công nghiệp hỗ trợ, theo đó Chính phủ đã ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP được đánh giá là bước đột phá, tạo cú hích mạnh mẽ thu hút đầu tư và thúc đẩy doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nhìn tổng thể, nhiệm kỳ 2020 - 2025 của ngành công nghiệp là thời kỳ kiến tạo lại cấu trúc, đặt nền tảng cho một nền công nghiệp hiện đại, tự chủ hơn. Chính sách được siết chặt, sản xuất mở rộng, chuỗi cung ứng củng cố tạo nên một “bản đồ công nghiệp” rõ đường nét hơn cho giai đoạn tiếp theo.

3. Xuất nhập khẩu lập đỉnh mới, ước đạt 920 tỷ USD, đưa Việt Nam vươn lên nằm trong Top 15 quốc gia thương mại quốc tế hàng đầu

Giai đoạn 2015 - 2020 có cột mốc lịch sử: Xuất nhập khẩu năm 2019 lần đầu vượt 500 tỷ USD, năm 2020 lên khoảng 543 - 545 tỷ USD, nhưng giai đoạn 2021 - 2025 đã tăng gần gấp đôi con số kỷ lục của cả giai đoạn trước.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2025 ước đạt 920 tỷ USD – mức cao nhất từ trước tới nay. Nhờ đó, Việt Nam đã chính thức vươn lên nằm trong Top 15 quốc gia thương mại quốc tế lớn nhất. Nếu năm 2020, Việt Nam mới xếp khoảng hạng 27 toàn cầu về thương mại thì đến 2025 thứ hạng đã cải thiện vượt bậc (Top 15), phản ánh năng lực sản xuất và hội nhập được nâng lên tầm cao mới. Các chuyên gia đánh giá đây là dấu mốc chiến lược, cho thấy nền kinh tế Việt Nam có độ mở và khả năng thích ứng thuộc hàng đầu thế giới.

Việt Nam duy trì xuất siêu năm thứ 10 liên tiếp – cả thập kỷ liền cán cân thương mại thặng dư. Lũy kế giai đoạn 2016 - 2025, tổng thặng dư thương mại đã vượt 100 tỷ USD, góp phần củng cố dự trữ ngoại hối và ổn định vĩ mô.

Yếu tố quyết định vị thế thương mại của một quốc gia nằm ở khả năng tạo ra ngoại tệ và duy trì thặng dư ổn định. Việt Nam đã xuất siêu liên tục nhiều năm, hiện đạt khoảng 30 tỷ USD, nhờ xuất khẩu vượt nhập khẩu bền vững, tỷ giá VNĐ được giữ ổn định, lạm phát kiểm soát tốt suốt 5 năm qua. Ý nghĩa chiến lược là “tính bền”: từ một kỷ lục theo năm (2020) sang một đặc tính vĩ mô kéo dài của nền kinh tế (đến 2025 vẫn giữ nhịp).

Xuất nhập khẩu Việt Nam có bước tăng trưởng ngoạn mục.

Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều sâu. Số lượng mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD tăng lên 38 mặt hàng trong 11 tháng 2025 (so với 31 mặt hàng năm 2020), trong đó có khoảng 8 mặt hàng trên 10 tỷ USD. Đặc biệt, khu vực doanh nghiệp trong nước đã vươn lên mạnh mẽ: nếu năm 2020 xuất khẩu khối doanh nghiệp nội chỉ bằng ~30% khối FDI, thì đến năm 2025 tỷ trọng này tiệm cận ngang bằng.

Xuất khẩu không chỉ tăng lượng mà chuyển mạnh sang chiều sâu, khi hàng chế biến chiếm 85%, hàng công nghệ cao gần 50%. Giai đoạn 2021 - 2025, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đã ghi dấu một giai đoạn bứt phá mạnh mẽ, trở thành trụ cột đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ 72,7% năm 2021 lên ước khoảng 85% vào năm 2025.

Đóng góp vào bước tiến này là nỗ lực quyết liệt của Bộ Công Thương trong hoàn thiện thể chế, chiến lược và phân cấp điều hành. Bộ đã tham mưu trình Chính phủ ban hành hàng loạt văn bản quan trọng như Quyết định 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030; Nghị định 146/2025/NĐ-CP quy định phân cấp mạnh trong các lĩnh vực xúc tiến thương mại, xuất nhập khẩu, kinh doanh khí, xăng dầu, rượu bia… nâng cao tính chủ động cho Bộ và địa phương; Quyết định 165/QĐ-TTg ngày 28/02/2023 về tái cơ cấu ngành Công Thương với mục tiêu duy trì thặng dư thương mại và giữ tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn nhập khẩu, tăng bình quân 6 - 8%/năm.

Trong lĩnh vực quản lý thương mại và xuất nhập khẩu, năm 2025, Bộ Công Thương đã trình phân cấp xuống địa phương 47/87 nhiệm vụ, đơn giản hóa 44/85 thủ tục hành chính, giảm trên 50% yêu cầu hồ sơ, qua đó tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.

Những giải pháp này đã tạo nền tảng thể chế vững chắc, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và tạo động lực mới cho xuất nhập khẩu hàng hóa trong giai đoạn phát triển tiếp theo.

4. Thị trường trong nước phát triển vững chắc, là trụ đỡ kinh tế, vào Top 32 thế giới, giữ vững cân đối cung cầu

Năm 2020: tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 5.059,8 nghìn tỷ đồng. Năm 2025 con số này đã vượt 7.000 tỷ đồng, chỉ số tâm lý người tiêu dùng ASEAN 67 điểm, dẫn đầu khu vực

Trong giai đoạn 2021 - 2025, thị trường trong nước tiếp tục khẳng định vai trò là bệ đỡ chiến lược của nền kinh tế, giúp duy trì nhịp tăng trưởng và ổn định sản xuất trong bối cảnh liên tiếp xuất hiện biến động từ thị trường quốc tế. Với quy mô hơn 100 triệu dân và tầng lớp trung lưu tăng nhanh, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có thị trường nội địa lớn và tốc độ mở rộng mạnh mẽ nhất khu vực, đặc biệt ở các ngành thực phẩm - đồ uống, hàng tiêu dùng nhanh và thương mại điện tử.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng trưởng bình quân ước 8,1%/năm, phản ánh sức cầu bền vững của nền kinh tế, đồng thời tạo động lực quan trọng cho sản xuất công nghiệp và thương mại nội địa.

Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại tăng nhanh về số lượng và chất lượng.

Song song với tăng trưởng về lượng, chất lượng thị trường nội địa cũng được nâng lên. Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” bước sang năm thứ 16 đã đạt kết quả rõ nét: hàng Việt chiếm tới 90 - 95% trong hầu hết hệ thống phân phối, từ siêu thị nội địa như Co.opmart, WinMart đến các đại siêu thị nước ngoài như Go!/Big C, MegaMarket, AEON

Cùng với đó, cấu trúc thị trường trong nước chuyển dịch mạnh theo hướng văn minh, hiện đại. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, logistics và nền tảng TMĐT tăng nhanh về số lượng và chất lượng, đóng góp gần 30% tổng mức bán lẻ. Các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường… được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi, đặc biệt trong hệ thống thương mại hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trẻ.

Nhiệm kỳ vừa qua, các nguyên liệu chiến lược đầu vào như điện, than, xăng dầu - những trụ cột quyết định an ninh năng lượng và sự vận hành trơn tru của nền kinh tế được đảm bảo nguồn cung. Công tác điều hành thị trường hàng hoá thiết yếu được triển khai linh hoạt.

Song song hoàn thiện chính sách phát triển thị trường, Bộ Công Thương đã tham mưu Chính phủ ban hành nhiều văn bản quan trọng: Quyết định 2326/QĐ-TTg (21/10/2025) phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định 386/QĐ-TTg (2021) về phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Quyết định 1163/QĐ-TTg (2021) phê duyệt Chiến lược phát triển thương mại trong nước đến 2030; Nghị định 33/2022/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh Quản lý thị trường; Quyết định 1968/QĐ-TTg (2021) về chuyển đổi số trong xúc tiến thương mại; và Nghị định 128/2024/NĐ-CP sửa đổi quy định về xúc tiến thương mại.

Bộ cũng thực hiện mạnh mẽ phân cấp, phân quyền cho địa phương trong nhiều lĩnh vực như kinh doanh rượu, thuốc lá, khí, quản lý chợ và một phần kinh doanh xăng dầu, giúp hoạt động quản lý nhà nước linh hoạt và sát thực tiễn hơn.

Những nỗ lực này tạo nền tảng quan trọng giúp thị trường trong nước phát triển bền vững, trở thành điểm tựa tăng trưởng và động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia.

5. Mở rộng xa lộ hội nhập, tiếp tục phát huy 17 FTA với 65 thị trường, ký kết mới 4 FTA, đổi mới hoạt động của thương vụ, lần đầu có FTA Index

Giai đoạn 2021 - 2025 ghi dấu bước chuyển mạnh mẽ của ngành Công Thương trong vai trò “người mở đường” cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển thị trường nước ngoài. Với vai trò cơ quan đầu mối về hội nhập kinh tế quốc tế và đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA), Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, nâng cấp các FTA; xây dựng và triển khai đồng bộ các chương trình, kế hoạch thực thi FTA.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng UAE Sheikh Mohammed bin Rashid Al Maktoum chứng kiến lễ ký kết Hiệp định CEPA, Hiệp định thương mại tự do đầu tiên của Việt Nam với một nước Ả rập. Ảnh: VGP Nhật Bắc.

Việt Nam đã ký mới 4 FTA gồm RCEP, FTA Việt Nam - Israel, FTA Việt Nam - Vương quốc Anh, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE (CEPA), nâng tổng số FTA lên 17 hiệp định với 65 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận sâu hơn các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Song song với việc mở rộng mạng lưới FTA, Bộ Công Thương tiếp tục thúc đẩy hàng loạt cuộc đàm phán với các đối tác tiềm năng như GCC, MERCOSUR, EFTA, Canada, Pakistan... tạo dư địa thị trường mới cho doanh nghiệp trong bối cảnh các thị trường truyền thống đối mặt nhiều rủi ro. Dù năm 2025 chưa ghi nhận FTA mới được ký kết, nhưng các vòng đàm phán đang tạo “đường băng” thể chế quan trọng cho giai đoạn 2026 trở đi.

Ở góc độ thực thi, ngành Công Thương tập trung cao cho việc nâng chất lượng tận dụng FTA. Theo đó, xuất khẩu sang các thị trường thành viên các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA đạt tăng trưởng cao và ổn định (trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu sang Canada đạt 6,8 tỷ USD, tăng 17,7%; xuất khẩu sang EU đạt 51 tỷ USD, tăng 7,9%). Việc xuất khẩu của Việt Nam tăng tại các thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như Hoa Kỳ, Canada, Australia, Nhật Bản, EU… cho thấy xuất khẩu của nước ta không chỉ mở rộng về chiều rộng mà đã có những cải thiện về chiều sâu.

Một dấu ấn nổi bật khác là việc thiết lập và vận hành hiệu quả các cơ chế hợp tác song phương, đa phương thông qua ủy ban liên Chính phủ, nhóm công tác, diễn đàn hợp tác thương mại - công nghiệp - năng lượng. Các cơ chế này giúp tháo gỡ rào cản thị trường, kết nối chính sách với thực tiễn, hỗ trợ doanh nghiệp xử lý các tranh chấp, phòng vệ thương mại, tiêu chuẩn kỹ thuật, truy xuất nguồn gốc, từ đó nâng cao năng lực thâm nhập thị trường.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ qua chứng kiến sự đổi mới toàn diện của hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Việc Bộ Công Thương tổ chức thường kỳ các hội nghị giao ban xúc tiến thương mại từ năm 2022 đến nay đã tạo kênh kết nối trực tiếp, hai chiều giữa cơ quan quản lý, Thương vụ, địa phương và doanh nghiệp. Các Thương vụ không chỉ làm tốt nhiệm vụ “sứ giả kinh tế” cung cấp thông tin thị trường mà ngày càng đóng vai trò chủ động kết nối giao thương, xúc tiến đầu tư, hỗ trợ xử lý rào cản xuất nhập khẩu tại chỗ.

Trong bối cảnh thương mại toàn cầu gia tăng rủi ro, năm 2025 đánh dấu vai trò đặc biệt quan trọng của ngành Công Thương trong xử lý quan hệ thương mại với Hoa Kỳ. Trước việc Hoa Kỳ áp dụng thuế nhập khẩu và thuế đối ứng mới, Bộ trưởng Bộ Công Thương được Chính phủ giao làm Trưởng đoàn đàm phán với phía Hoa Kỳ. Quá trình đàm phán được triển khai khẩn trương, linh hoạt, bám sát chỉ đạo của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, trên nguyên tắc hài hòa lợi ích, phù hợp thông lệ quốc tế.

Trong nước, việc nâng cao chất lượng thực thi FTA được đặt ở vị trí trung tâm. Tháng 4/2025, Bộ Công Thương lần đầu tiên công bố Bộ chỉ số đánh giá thực thi FTA của các địa phương - FTA Index. Đây là công cụ định lượng, dựa trên khảo sát thực tế doanh nghiệp, giúp đo lường mức độ tận dụng FTA, chỉ rõ điểm nghẽn trong phối hợp giữa Trung ương - địa phương - doanh nghiệp. FTA Index không chỉ là “thước đo” mà còn là căn cứ quan trọng cho việc điều chỉnh chính sách, phân bổ nguồn lực và nâng cao trách nhiệm của từng địa phương trong hội nhập.

6. Thương mại điện tử Việt Nam bùng nổ với mức tăng trưởng 22- 25%/năm, giữ vững vị trí Top 10 toàn cầu về tốc độ, Top 3 Đông Nam Á

Năm 2020, thương mại điện tử (TMĐT) đạt khoảng 14 tỷ USD, đến năm 2025, vượt 31 tỷ USD, tăng hơn 2 lần, tốc độ 20 - 25%/năm, Top 10 toàn cầu, Top 3 ASEAN. TMĐT chiếm khoảng 10% tổng bán lẻ, trở thành động lực chính của kinh tế số, thay đổi căn bản cấu trúc phân phối.

Lãnh đạo Bộ Công Thương khai mạc ngày Hội mua sắm trực tuyến Online Friday 2025.

Trong giai đoạn 2021 - 2025, thương mại điện tử tăng trưởng ấn tượng, đạt mức trung bình 20 - 25% mỗi năm và đạt mốc 25 tỷ USD vào năm 2024, chiếm khoảng 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước và xấp xỉ 2/3 giá trị của nền kinh tế số Việt Nam, xếp hạng top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử nhanh nhất thế giới, tạo động lực phát triển kinh tế số và dẫn dắt chuyển đổi số trong doanh nghiệp.

Giai đoạn này chứng kiến sự hoàn thiện dần của môi trường pháp lý, mở đầu bằng việc điều chỉnh khung quản lý đối với hoạt động thương mại điện tử qua Nghị định 85/2021/NĐ-CP và được củng cố bằng Luật Thương mại điện tử được Quốc hội thông qua tại kỳ họp 10 Quốc hội khóa XV, tạo nền tảng pháp lý cao hơn, toàn diện và ổn định hơn cho thị trường.

Bên cạnh đó, hành vi tiêu dùng và mô hình kinh doanh thay đổi sâu sắc. Sự trỗi dậy của livestream bán hàng, thương mại đa kênh, kinh doanh trên nền tảng quốc tế và sự tham gia ồ ạt của lực lượng nhà bán hàng chuyên nghiệp đã tạo diện mạo mới cho thị trường. Nhiều nền tảng trực tuyến mở rộng hoạt động tại Việt Nam, trong khi doanh nghiệp trong nước đầu tư mạnh vào logistics, công nghệ xử lý đơn hàng, phân tích dữ liệu lớn và tự động hóa để gia tăng hiệu quả. Các mô hình này không chỉ làm tăng tốc doanh số mà còn định hình một hệ sinh thái thương mại điện tử đa tầng, gắn chặt với dòng chảy tiêu dùng của hàng chục triệu người Việt.

Sự trưởng thành của thị trường còn thể hiện ở việc thương mại điện tử trở thành động lực chính, quan trọng đóng góp vào quy mô, tăng trưởng của kinh tế số. Sự bùng nổ mô hình livestream, sự hoàn thiện khung pháp lý và tốc độ ứng dụng công nghệ trong doanh nghiệp cho thấy thương mại điện tử đang bước vào thời kỳ phát triển ổn định hơn, bền vững hơn và đóng vai trò ngày càng lớn trong cấu trúc kinh tế số quốc gia.

7. Xúc tiến thương mại “lột xác” với gần 1.000 đề án, 50.000 doanh nghiệp được hỗ trợ, thương hiệu quốc gia tăng nhiều bậc

Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt mốc 519,6 tỷ USD, tăng hơn 200 tỷ USD (tương đương gần 63%) so với năm 2020. Trên 1.000 đề án xúc tiến thương mại được triển khai với tổng kinh phí hơn 800 tỷ đồng, hỗ trợ khoảng 500.000 lượt doanh nghiệp – những con số biết nói khẳng định bước chuyển mình mạnh mẽ của công tác xúc tiến thương mại theo hướng số hóa, xanh hóa và hội nhập sâu với thị trường quốc tế.

 Hội chợ Mùa Thu 2025 - thành công vượt kỳ vọng.

Giai đoạn 2021 - 2025 công tác xúc tiến thương mại bứt phá, đổi mới toàn diện cả về tư duy, phương thức và quy mô triển khai. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Bộ Công Thương, xúc tiến thương mại đã thực sự trở thành “bệ đỡ” quan trọng giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường, gia tăng giá trị xuất khẩu, đồng thời góp phần nâng cao vị thế và sức mạnh mềm của thương hiệu quốc gia Việt Nam.

Hoàn thiện thể chế tiếp tục là nền tảng then chốt cho đổi mới xúc tiến thương mại. Năm 2024, Nghị định số 14/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 28/2018/NĐ-CP về một số biện pháp phát triển ngoại thương được Bộ Công Thương trình Chính phủ ban hành, kịp thời cập nhật các yêu cầu mới về chuyển đổi số, phát triển xanh, tiêu chuẩn môi trường, xuất xứ hàng hóa và các quy định mới từ thị trường quốc tế.

Trên cơ sở đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về xúc tiến thương mại (XTTM) được triển khai theo hướng tập trung, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực, ngành hàng có lợi thế cạnh tranh gắn với kết nối thị trường, đào tạo, cung cấp thông tin và phát triển thương hiệu.

Bộ Công Thương tổ chức thường xuyên các hội nghị giao ban với hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, diễn đàn xuất khẩu, hội chợ quốc tế và chương trình kết nối cung - cầu, góp phần đưa hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nhiều thị trường lớn.

Hơn 30 biên bản hợp tác xúc tiến thương mại đã được ký kết với các cơ quan xúc tiến nước ngoài, mở rộng mạng lưới hợp tác song phương và đa phương. Hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục phát huy vai trò trong việc cung cấp thông tin kịp thời, kết nối giao thương và hỗ trợ doanh nghiệp xử lý rào cản thị trường. Nhờ đó, nhiều mặt hàng nông sản chủ lực như sầu riêng, xoài, vải, hạt điều, cà phê… đạt kết quả xuất khẩu ấn tượng tại các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Dấu ấn nổi bật nhất của hoạt động XTTM trong giai đoạn này là chuỗi sự kiện quy mô lớn trong khuôn khổ Triển lãm 80 năm thành tựu đất nước (28/8 – 15/9/2025). Tại triển lãm, Bộ Công Thương đã tổ chức không gian trưng bày có chiều sâu, tái hiện sinh động hành trình phát triển của ngành từ thời kỳ “kinh tế kháng chiến” đến giai đoạn “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và hội nhập quốc tế sâu rộng, qua đó khẳng định vai trò nòng cốt của ngành Công Thương trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Đặc biệt, không gian “Khởi nghiệp kiến quốc” đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, tôn vinh khu vực kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị, phản ánh rõ nét tinh thần đổi mới sáng tạo, khát vọng vươn lên và đóng góp ngày càng quan trọng của doanh nghiệp tư nhân đối với tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Chuyển đổi số trong xúc tiến thương mại được đẩy mạnh chưa từng có, với việc xây dựng sàn xúc tiến thương mại số, triển khai hội chợ ảo, livestream bán hàng xuyên biên giới, ứng dụng công nghệ 3D, blockchain trong truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu phát triển xanh và các quy định mới như Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của EU. Phương thức xúc tiến truyền thống từng bước được đổi mới, kết hợp linh hoạt với các giải pháp số hóa, giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí, tiếp cận thị trường nhanh và hiệu quả hơn.

 8. Tạo lập thiết chế quản lý cạnh tranh, phòng vệ thương mại, lá chắn thép bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng Việt

Khởi xướng 61 vụ điều tra phòng vệ thương mại, áp dụng 48 biện pháp, hiện 37 biện pháp còn hiệu lực, bảo vệ hiệu quả sản xuất trong nước. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 và mô hình Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tạo khung pháp lý tiệm cận chuẩn mực quốc tế, bảo vệ người tiêu dùng và môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Ảnh minh hoạ.

Với việc kiện toàn mô hình quản lý cạnh tranh thành Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đã tăng cường công tác giám sát và quản lý cạnh tranh, đặc biệt là trong kiểm soát tốt các hoạt động tập trung kinh tế; rà soát, theo dõi và xử lý các vụ việc điều tra và xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh…   

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 đã được Quốc hội biểu quyết thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2023 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024. Bộ Công Thương tham mưu, trình cấp có thẩm quyền ban hành Kết luận số 207-KL/TW ngày 10/11/2025 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 22/1/2019 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Sau hơn 5 năm triển khai Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 10/11/2025, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 207-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư khóa XII “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”.

Trên cơ sở chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Công Thương đã giao cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xây dựng và triển khai Đề án phát triển hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng giai đoạn 2026 – 2030; Đảng ủy Bộ Công Thương cũng đã xây dựng, ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận 207-KL/TW, đề ra rõ mục đích yêu cầu, giải pháp trọng tâm, phân công nhiệm vụ thực hiện… tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được thực hiện công bằng, kịp thời, hiệu lực, hiệu quả.

Tính đến cuối tháng 10/2025, Việt Nam đã phải đối mặt tổng cộng 297 vụ điều tra PVTM do nước ngoài khởi xướng (tích lũy qua các năm)– tăng gần gấp đôi so với khoảng 150 vụ vào năm 2020. Chỉ riêng năm 2024 - 2025, trung bình mỗi năm có khoảng 15–20 vụ việc mới, trải rộng ở nhiều thị trường xuất khẩu trọng điểm.

Các hình thức điều tra ngày càng đa dạng và phức tạp: 160 vụ chống bán phá giá, 33 vụ chống trợ cấp, 59 vụ tự vệ và 40 vụ chống lẩn tránh thuế đã được tiến hành với sản phẩm Việt Nam. Hoa Kỳ là nước khởi xướng nhiều nhất (chiếm 26% tổng vụ việc), tiếp đến là EU, Ấn Độ, Canada, Úc. Phạm vi điều tra cũng mở rộng sang cả những mặt hàng có kim ngạch nhỏ dưới 10 triệu USD như vỏ viên nhộng, đinh thép, túi giấy…

Trước tình hình đó, Bộ Công Thương đã triển khai một loạt biện pháp đồng bộ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp. Hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện PVTM đã được thiết lập và vận hành, thường xuyên thông tin tới hiệp hội, doanh nghiệp về nguy cơ điều tra để chủ động phòng tránh. Bộ cũng phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành, tham tán thương mại ở nước ngoài để thu thập thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trả lời bản câu hỏi điều tra một cách đầy đủ và đúng hạn.

Nhờ sự chuẩn bị kỹ, phần lớn vụ việc đã có kết quả tích cực cho phía Việt Nam: hoặc kết thúc điều tra mà không áp thuế, hoặc áp thuế ở mức thấp chấp nhận được. Đơn cử, vụ EU điều tra chống phá giá sản phẩm sợi polyester Việt Nam đã kết thúc năm 2025 với kết luận không áp thuế do phía Việt Nam chứng minh được không bán phá giá.

Mới đây nhất, Hoa Kỳ quyết định không áp thuế chống trợ cấp lên pin năng lượng mặt trời Việt Nam sau khi ta phản biện thành công cáo buộc “trợ cấp tiền tệ”. Những kết quả này giúp nhiều ngành hàng giữ vững thị phần xuất khẩu, tiếp tục tăng trưởng giữa sóng gió bảo hộ. Tổng kết 5 năm, trong hơn 100 vụ PVTM mà Việt Nam bị áp dụng trước 2021, Bộ Công Thương đã xử lý thành công, bảo vệ lợi ích cho ngành hàng trong 80% số vụ – một tỷ lệ rất cao so với nhiều nước.

Năm 2025 còn đánh dấu bước tiến quan trọng về hoàn thiện khung pháp lý PVTM trong nước. Tháng 4/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 86/2025/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp PVTM. Nghị định này quy định rõ quy trình, thủ tục xử lý các vụ việc PVTM đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (trợ giúp doanh nghiệp bị kiện, phối hợp liên ngành, thậm chí khởi kiện ngược lại nước điều tra nếu vi phạm cam kết quốc tế).

Đây là hành lang pháp lý quan trọng, nâng cao tính chủ động của ta trong tranh chấp thương mại, thay vì bị động ứng phó như trước. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng ban hành Thông tư 26/2025/TT-BCT về hệ thống cảnh báo sớm PVTM, yêu cầu các cơ quan quản lý và hiệp hội tăng cường thu thập thông tin, phổ biến cho doanh nghiệp.

So với năm 2020, năng lực pháp lý và thực tiễn của Việt Nam trong phòng vệ thương mại đã được nâng lên một tầm cao mới, đủ sức đối phó với môi trường thương mại toàn cầu ngày càng nhiều rào cản. Điều này góp phần bảo đảm mục tiêu phát triển xuất khẩu bền vững và công bằng, giữ vững đà tăng trưởng trong dài hạn.

Giai đoạn 2021 - 2025, Bộ Công Thương đã thực hiện tốt việc kiểm soát tập trung kinh tế (đã thẩm định, xử lý hàng nghìn hồ sơ thông báo tập trung kinh tế), đây là công cụ pháp lý để Nhà nước giám sát, điều tiết thị trường, duy trì sự cân bằng lợi ích giữa doanh nghiệp, người tiêu dùng. Đồng thời, công tác điều tra, xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế, cạnh tranh không lành mạnh được đẩy mạnh, chỉ tính riêng năm 2024, 2025 đã xử lý 24 vụ việc vi phạm quy định về cạnh tranh, ra quyết định xử phạt hàng loạt doanh nghiệp vi phạm với tổng số tiền xử phạt nhiều tỷ đồng, góp phần răn đe và nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cạnh tranh, góp phần góp phần xây dựng một thị trường cạnh tranh lành mạnh, bền vững và hài hòa lợi ích giữa doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội.

Công tác Quản lý thị trường luôn được chú trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, phát triển thị trường nội địa. Lực lượng Quản lý thị trường đóng vai trò như một “tuyến phòng vệ sống còn” trước những thách thức ngày càng phức tạp như hàng giả, gian lận thương mại và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - đặc biệt trong môi trường thương mại điện tử.

9. Đột phá về thể chế và hạ tầng, tạo nền tảng vững chắc cho an ninh năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030

Giai đoạn 2021 - 2025 ghi dấu bước chuyển mạnh mẽ về tư duy và khuôn khổ thể chế của ngành điện và năng lượng, tạo nền tảng pháp lý và chiến lược quan trọng cho bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia trong trung hạn và dài hạn. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 với nhiều cơ chế, chính sách phát triển nguồn năng lượng mới (điện gió ngoài khơi, điện hạt nhân).

Trước đó, Nghị quyết 189/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt đầu tư xây dựng Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận được xác định không nhằm thay thế các nguồn năng lượng hiện có, mà đóng vai trò là nguồn điện nền ổn định, công suất lớn, phát thải thấp, góp phần bảo đảm cân bằng cung cầu điện trong dài hạn, hỗ trợ thực hiện cam kết phát thải ròng bằng không và nâng cao mức độ tự chủ của hệ thống năng lượng quốc gia.

Việt Nam có tiếm năng lớn về năng lượng tái tạo.

Nhiều dự án lớn năng lượng đã khánh thành và đi vào hoạt động như: Đường dây 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch đến Phố Nối (gồm 4 cung đoạn) với chiều dài trên 500km đã được hoàn thành. Thành tích này được đánh giá là chưa từng có tiền lệ với các công trình xây dựng đường dây 500kV trước đó. Đường dây 500kV Lào Cai – Vĩnh Yên - dự án trọng điểm quốc gia, với quy mô công trình là đường dây 500kV mạch kép có tổng chiều dài 229,5km, với tổng cộng 468 vị trí móng cột điện cũng đã được khánh thành.

Bên cạnh đó, Luật Điện lực (sửa đổi) được thông qua nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn kéo dài trong đầu tư nguồn và lưới điện, hoàn thiện cơ chế thị trường điện cạnh tranh, mở rộng không gian cho khu vực tư nhân tham gia đầu tư, mua bán điện, đồng thời tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước đối với lĩnh vực thiết yếu này.

Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tiếp tục được sửa đổi theo hướng coi tiết kiệm năng lượng là giải pháp ưu tiên, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm và chính quyền địa phương trong quản lý nhu cầu năng lượng. Luật Dầu khí được hoàn thiện khơi thông hoạt động thăm dò, khai thác, thu hút đầu tư trong bối cảnh trữ lượng giảm và chi phí gia tăng.

Hệ thống quy hoạch ngành năng lượng được ban hành và điều chỉnh đồng bộ. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia được xây dựng và cập nhật theo cách tiếp cận tích hợp, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn điện, lưới điện và nhu cầu phụ tải của từng vùng, từng địa phương. Các chiến lược phát triển năng lượng quốc gia được ban hành nhằm định hướng dài hạn cho chuyển dịch năng lượng, bảo đảm an ninh năng lượng gắn với mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Bên cạnh đó, quy hoạch hạ tầng xăng dầu, khí và quy hoạch khoáng sản được hoàn thiện, tạo cơ sở cho phát triển đồng bộ chuỗi cung ứng năng lượng, từ khai thác, chế biến, dự trữ đến phân phối.

Hàng loạt nghị định, cơ chế và chính sách chuyên ngành năng lượng được ban hành để cụ thể hóa các luật và quy hoạch đã được phê duyệt. Nhiều cơ chế mới liên quan đến đầu tư điện khí LNG, phát triển năng lượng tái tạo, lưu trữ năng lượng, mua bán điện trực tiếp, huy động nguồn lực xã hội hóa, cũng như cơ chế giá điện và giá nhiên liệu từng bước được hoàn thiện theo hướng tiệm cận thị trường, tăng tính minh bạch và ổn định cho nhà đầu tư.

10. Tinh gọn bộ máy, cải cách mạnh mẽ, đổi mới truyền thông, nâng cao hiệu lực quản lý, tạo đồng thuận xã hội

Trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, giai đoạn đầu, Đảng bộ Bộ Công Thương là đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương. Theo chủ trương cơ cấu sắp xếp tinh gọn bộ máy, Đảng bộ Bộ Công Thương được thành lập theo Quyết định số 11-QĐ/ĐU ngày 12/02/2025 của Đảng bộ Chính phủ, là Đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức Đảng cơ sở trực thuộc Đảng bộ Chính phủ.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên phát biểu làm rõ các vấn đề đại biểu quan tâm tại Kỳ họp thứ X, Quốc hội khóa XV.

Thực hiện các Nghị quyết, chỉ đạo của Trung ương trong công tác kiện toàn, sắp xếp, tinh gọn bộ máy, đến nay số lượng tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ giảm từ 65 tổ chức đầu nhiệm kỳ xuống còn 38 tổ chức (giảm 41,5%).

Song song với đó, cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương được kiện toàn còn 21 đơn vị, giảm 7 đầu mối (giảm 25%). Đối với đơn vị cấp phòng, Bộ sắp xếp còn 119 phòng, giảm 231 phòng (giảm 66%).

Dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Công Thương và Ban Chỉ đạo 35, Bộ Công Thương giao Báo Công Thương tổ chức thành công Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong ngành Công Thương, thu hút hàng nghìn bài dự thi. Các bài viết sau đó được tập hợp thành sách “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên mặt trận kinh tế”, được đánh giá là công cụ tư liệu tuyên truyền giá trị, phát hành rộng khắp trong toàn ngành.

Bộ Công Thương chỉ đạo biên soạn và hoàn thành bộ biên niên sử của ngành, góp phần bồi đắp niềm tự hào truyền thống, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và người lao động toàn ngành. Khánh thành Phòng Truyền thống ngành Công Thương - nơi lưu giữ, trưng bày các hiện vật, tư liệu quý giá, tái hiện lịch sử hình thành và phát triển hơn 70 năm của ngành Công Thương Việt Nam, trở thành địa chỉ văn hóa, giáo dục truyền thống cho thế hệ hiện tại và tương lai.

Có thể nói, giai đoạn 2021 - 2025 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường; đại dịch Covid-19, xung đột địa chính trị, biến đổi khí hậu, đất nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các yếu tố bất lợi từ bên ngoài, thiên tai, dịch bệnh, đồng thời phải tập trung khắc phục những tồn đọng kéo dài...

Mặc dù có những diễn biến bất lợi, nhưng cùng với cả nước, ngành Công Thương đã tích cực, chủ động triển khai đồng bộ các giải pháp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch. Các lĩnh vực trọng yếu như công nghiệp, năng lượng, xuất nhập khẩu và thị trường trong nước từng bước phục hồi, tăng trưởng rõ nét, đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống Nhân dân và nâng cao vị thế đất nước.

Những thành quả trên trong nhiệm kỳ ghi dấu ấn đậm nét vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo Bộ, đặc biệt là Bộ trưởng trong công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của ngành.

Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy Bộ Công Thương đã phát huy vai trò hạt nhân chính trị, bám sát đường lối của Đảng, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ và hiệu quả trên các mặt công tác, đạt được nhiều kết quả nổi bật: Việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội vào thực tiễn ngành Công Thương được triển khai bài bản, quyết liệt. Các trụ cột sản xuất công nghiệp, năng lượng, xuất nhập khẩu, thị trường trong nước được giữ vững, bảo đảm an ninh năng lượng, xăng dầu, hàng hóa thiết yếu ngay cả trong bối cảnh biến động toàn cầu.

Nhiều chủ trương quan trọng liên quan đến các lĩnh vực Công Thương được Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Công Thương tham mưu, trình Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển ngành được xây dựng kịp thời, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng, tạo lập hành lang pháp lý và khung chính sách thống nhất, đồng bộ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.

Công tác phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo trong ngành Công Thương tiếp tục được đẩy mạnh; hệ thống hạ tầng năng lượng và hạ tầng thương mại ngày càng được củng cố theo hướng văn minh, hiện đại, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của Nhân dân.

Công tác hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được nâng cao, góp phần khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đảng ủy Bộ kịp thời dự báo các xu thế mới của thương mại thế giới, luật chơi mới trên phạm vi toàn cầu để chủ động tham mưu cho Đảng, Quốc hội và Chính phủ các quyết sách quan trọng về hợp tác quốc tế, tham gia tích cực và đóng góp có trách nhiệm vào các nỗ lực chung toàn cầu về giải quyết các thách thức, nắm bắt các cơ hội thúc đẩy hợp tác phát triển.

BBT