Đóng

Cấp CO điện tử: Doanh nghiệp chuẩn bị kỹ để tối ưu cơ hội xuất khẩu

C/O điện tử hướng tới môi trường xuất khẩu số hóa, tuy nhiên, một số mẫu C/O cụ thể vẫn yêu cầu sản phẩm đầu ra là giấy.

C/O điện tử, hướng tới môi trường xuất khẩu số hóa

Việc triển khai cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) điện tử thay cho phương thức giấy truyền thống, cùng với cơ chế thương nhân tự chứng nhận xuất xứ, đang trở thành trọng tâm trong cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực xuất khẩu tại Việt Nam. Sự phối hợp giữa Bộ Công Thương, các Sở Công Thương địa phương và cộng đồng doanh nghiệp góp phần tối ưu hóa quy trình, bảo đảm tuân thủ các cam kết quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Việt Nam đã triển khai hoàn toàn C/O điện tử trong ba khuôn khổ gồm: ASEAN – 10 nước thành viên; ASEAN – Hàn Quốc (AK); và Việt Nam – Hàn Quốc (VK). Ảnh minh họa

Tuy nhiên, việc áp dụng C/O điện tử vẫn phụ thuộc vào sự chấp thuận của cơ quan hải quan nước nhập khẩu, bởi chứng từ xuất xứ là căn cứ để xác định hàng hóa có được hưởng ưu đãi thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do hay không.

Hiện nay, phần lớn C/O do Bộ Công Thương và các cơ quan có thẩm quyền cấp đã được xử lý trên nền tảng điện tử. Dù vậy, một số mẫu C/O theo quy định của các hiệp định và thỏa thuận với đối tác vẫn yêu cầu sản phẩm đầu ra là bản giấy.

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), Việt Nam đã triển khai hoàn toàn C/O điện tử trong ba khuôn khổ gồm: ASEAN - 10 nước thành viên; ASEAN - Hàn Quốc (AK); và Việt Nam - Hàn Quốc (VK). Trong các khuôn khổ này, dữ liệu C/O được truyền trực tiếp qua Cổng một cửa quốc gia đến hải quan Việt Nam và hải quan nước nhập khẩu, hình thành môi trường xử lý hoàn toàn số hóa, không phát sinh C/O giấy.

Ngược lại, với các mẫu C/O như EUR.1 (EVFTA), EUR.1 UK/HUKA (UKVFTA) và EAV (Hiệp định với Liên minh Kinh tế Á - Âu - EAEU), dù quy trình cấp được thực hiện điện tử, bản chính vẫn phải in giấy và gửi cho nhà nhập khẩu để làm thủ tục hải quan. Việc chuyển sang C/O điện tử hoàn toàn chỉ được thực hiện khi phía nước nhập khẩu chính thức chấp thuận.

Thực tế này cho thấy, trong khi Việt Nam đang từng bước hướng tới môi trường C/O hoàn toàn điện tử, doanh nghiệp vẫn cần tuân thủ chặt chẽ các yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu, đặc biệt đối với những hiệp định còn duy trì C/O giấy.

Đối với các mẫu C/O điện tử, doanh nghiệp và cơ quan quản lý có thể tra cứu, xác thực thông tin thông qua mã QR tích hợp. Việc quét mã QR cho phép truy cập đầy đủ dữ liệu C/O, góp phần nâng cao tính minh bạch, độ tin cậy và thuận lợi trong quá trình thông quan.

Một lô hàng chỉ được xử lý tại một cơ quan cấp C/O

Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2025, tại Điều 8 và Điều 9, Bộ trưởng Bộ Công Thương chỉ được ủy quyền hoặc phân cấp cho các đơn vị trực thuộc cơ quan nhà nước. Do đó, việc cấp C/O theo đúng quy định pháp luật bắt buộc phải được chuyển về cơ quan nhà nước, cụ thể là Bộ Công Thương.

Sau khi Luật Tổ chức Chính quyền địa phương 2025 được ban hành và Nghị định 146 về phân quyền, phân cấp có hiệu lực, việc phân quyền cấp C/O cho các địa phương trở nên rõ ràng hơn. Hiện nay, theo Nghị định 146 và Thông tư 40, một phần việc cấp C/O được ủy quyền cho UBND các tỉnh, thành phố. Các Ủy ban nhân dân sau đó giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc. Ví dụ, tại Hà Nội, Sở Công Thương được giao nhiệm vụ thực hiện cấp C/O và các thủ tục liên quan, thay mặt UBND thành phố.

Tiếp theo, một nội dung khác đã được tôi đề cập trong phần trình bày, đồng thời được nhiều đại biểu trao đổi và thảo luận, là vấn đề “phi địa giới hành chính” trong việc áp dụng thủ tục cấp C/O.

Liên quan đến cải cách thủ tục hành chính, doanh nghiệp có thể đề nghị cấp C/O tại các địa phương khác, không nhất thiết phải tại nơi đăng ký trụ sở hoặc nơi sản xuất. Ví dụ, Hà Nội sẵn sàng tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp C/O từ các tỉnh khác. Cơ chế này tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, bởi nhiều cơ sở sản xuất nằm ở các địa phương, trong khi các công ty thương mại hoặc doanh nghiệp xuất nhập khẩu lại có trụ sở tại Hà Nội.

Một ví dụ minh họa khác là trường hợp một công ty có trụ sở tại Hà Nội nhưng khi xuất hàng, có thể lựa chọn cửa khẩu xuất ở Quảng Ninh, Lạng Sơn, cảng Cát Lái hoặc cảng Hải Phòng, tùy theo mức độ thuận lợi. Doanh nghiệp có thể chọn cơ quan cấp C/O phù hợp với nhu cầu.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc này không có nghĩa là cùng một lô hàng có thể đề nghị cấp C/O tại Hà Nội, lô khác lại đề nghị cấp tại Hải Phòng. Khi doanh nghiệp đã lựa chọn một cơ quan cấp C/O, toàn bộ quá trình tiếp theo phải thực hiện thông qua cơ quan đó, bao gồm việc liên hệ với hệ thống cấp C/O điện tử và nhận tài khoản truy cập. Mỗi lô hàng không thể thay đổi cơ quan cấp C/O tùy tiện.

Các khuôn khổ C/O điện tử và cam kết quốc tế

Không phải tất cả cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đều cho phép doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ. Trong ASEAN, thương nhân muốn tự chứng nhận phải có văn bản chấp thuận của Sở Công Thương hoặc cơ quan cấp C/O có thẩm quyền. Đây là bước bắt buộc nhằm đảm bảo doanh nghiệp hiểu và tuân thủ đúng quy tắc xuất xứ.

Tại các thị trường khác, như EU hay Hoa Kỳ, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ có nguyên tắc riêng. Ví dụ, với EU, doanh nghiệp không cần văn bản chấp thuận của Sở Công Thương và được phép tự chứng nhận xuất xứ cho lô hàng dưới 6.000 EUR. Tuy nhiên, khi cơ quan hải quan kiểm tra, doanh nghiệp vẫn phải chứng minh tính hợp pháp của xuất xứ. Không chứng minh được, doanh nghiệp sẽ bị xử phạt. Thực tế cho thấy, mức thu hồi thuế và phạt có thể cao, nhiều lần so với trị giá lô hàng, do đó doanh nghiệp cần cẩn trọng khi áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ.

Tờ C/O thực chất là giá trị thuế mà doanh nghiệp nước ngoài được hưởng. Khi cầm trên tay một tờ C/O, đồng nghĩa với việc chúng ta đang nắm giữ công cụ giúp đối tác nhập khẩu được hưởng ưu đãi thuế quan”, đại diện Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) thông tin.

Thực tế cho thấy, trong quá trình đàm phán hợp đồng, nhiều doanh nghiệp có thể bán hàng với mức giá cao hơn, kèm theo cam kết cung cấp C/O để đối tác được hưởng ưu đãi thuế, có thể lên tới 18%. Nhờ đó, dù giá bán cao hơn, hàng hóa của Việt Nam vẫn có sức cạnh tranh rất tốt tại thị trường nước ngoài. Trong khi đó, doanh nghiệp từ các quốc gia không có FTA với thị trường nhập khẩu có thể phải giảm giá sâu nhưng vẫn không thể tiếp cận được mức ưu đãi thuế này. Thậm chí, có những mặt hàng mức thuế ưu đãi không chỉ dừng ở 18% mà có thể lên tới 40%.

Vì vậy, cần nhìn nhận C/O và cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa như một “giá trị kinh tế” thực sự. Việc doanh nghiệp hiểu đúng, chuẩn bị đầy đủ kiến thức về xuất xứ hàng hóa và xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp để đáp ứng quy tắc xuất xứ sẽ giúp hàng hóa đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan. Qua đó, doanh nghiệp có thể tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam tham gia, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Việc triển khai C/O điện tử và cơ chế tự chứng nhận xuất xứ là bước đi quan trọng trong cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực xuất khẩu. Doanh nghiệp cần: Nắm vững các loại C/O và khuôn khổ áp dụng; hiểu rõ quy trình cấp C/O, tự chứng nhận xuất xứ và các rủi ro pháp lý; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, Sở Công Thương và các cơ quan liên quan; chuẩn bị hồ sơ, dữ liệu và kế hoạch sản xuất phù hợp với quy tắc xuất xứ.

Sự phối hợp hiệu quả giữa cơ quan nhà nước và doanh nghiệp sẽ giúp Việt Nam hướng tới môi trường xuất khẩu số hóa, nâng cao tính minh bạch, giảm chi phí và thời gian, đồng thời bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế.

Việc hiểu đúng, chuẩn bị đầy đủ và áp dụng linh hoạt cơ chế C/O điện tử và tự chứng nhận xuất xứ sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ tuân thủ pháp luật và cam kết quốc tế, mà còn tối ưu hóa giá trị kinh tế của hàng hóa trên thị trường toàn cầu.

Nguyễn Hạnh