Đóng

Cây dược liệu: ‘Cánh cửa’ thoát nghèo của bà con dân tộc thiểu số

Nhờ khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cùng sự hỗ trợ tích cực của chính quyền các tỉnh miền núi, cây dược liệu trở thành công cụ thoát nghèo cho bà con dân tộc thiểu số.

Thoát nghèo nhờ trồng dược liệu

Xã Bá Thước (tỉnh Thanh Hóa), từng là một trong những địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao, cây dược liệu đã mang đến phép màu. Hàng trăm hộ dân chuyển đổi sang trồng cà gai leo, hoàn ngọc, xạ đen... và nhanh chóng nhận ra hiệu quả vượt trội. Một sào lúa trước kia chỉ thu được 2-3 triệu đồng thì nay, nếu chuyển sang dược liệu, có thể thu về 5-6 triệu đồng, thậm chí gấp đôi nếu liên kết được với doanh nghiệp.

Tại xã Điền Lư, tỉnh Thanh Hóa, trường hợp ông Nguyễn Hải là một minh chứng. Từ hộ khó khăn, sau khi chuyển sang trồng 1ha cây dược liệu, mỗi năm ông thu về 200 triệu đồng, đồng thời tạo việc làm ổn định cho 10-20 lao động với mức thu nhập 3-4 triệu đồng/tháng. Tương tự, gia đình anh Trương Văn Nghị cũng có thu nhập 150 triệu đồng/năm từ dược liệu.

Trồng, chế biến, tiêu thụ cây dược liệu giúp nhiều bà con dân tộc thiểu số thoát nghèo. Ảnh minh họa

Tại xã miền núi Sơn Thủy, việc quy hoạch vùng trồng dược liệu tập trung hay mời doanh nghiệp vào liên kết đã giúp người dân trồng mã tiền, thổ phục linh, hà thủ ô… cho năng suất và giá trị cao, từ đó cải thiện sinh kế rõ rệt.

Tại huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam cũ nay là xã Tây Giang, thành phố Đà Nẵng, cây ba kích tím đã làm thay đổi diện mạo kinh tế. Ông Nguyễn Văn Sao, một hộ dân địa phương, nhờ đầu tư trồng 10.000 cây ba kích trên 1ha đất đã thu về khoảng 2 tỷ đồng. Cây dược liệu không chỉ giúp người dân tăng thu nhập, mà còn góp phần gìn giữ rừng tự nhiên, bởi hầu hết các loại cây này đều được trồng dưới tán rừng, tạo sinh kế bền vững.

Khi chính sách và đồng thuận địa phương gặp nhau

Hiệu quả tích cực từ cây dược liệu đối với bà con dân tộc thiểu số tại những tỉnh miền núi, bên cạnh điều kiện tự nhiên như thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp còn tới từ chính sách hỗ trợ đúng hướng của địa phương.

Sâm Lai Châu được trồng thí điểm dưới tán rừng. Ảnh minh họa

Tại Thanh Hóa, tỉnh đã xác định rõ chiến lược phát triển cây dược liệu từ cấp xã đến huyện, gắn với mô hình hợp tác xã, liên kết doanh nghiệp. Quảng Nam huy động nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững để hỗ trợ trồng gần 1.200ha cây dược liệu.

Tại khu vực Tây Bắc, đặc biệt là Lai Châu, Lào Cai đã tích cực triển khai bảo tồn, nhân giống và phát triển cây bản địa quý như tam thất, sâm Lai Châu, thảo quả, đương quy…

Tuy nhiên, hành trình khai thác tiềm năng dược liệu thành ngành hàng bền vững không dễ. Vấn đề lớn nhất hiện nay là sản xuất còn manh mún, thiếu liên kết chặt chẽ giữa nông dân - doanh nghiệp - cơ quan khoa học. Quy trình trồng - thu hái - bảo quản - chế biến chưa đạt chuẩn, nhiều sản phẩm chưa có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, dẫn đến khó khăn khi tham gia thị trường trong nước, chưa nói đến xuất khẩu.

Tại Tây Bắc, nơi được ví là “thủ phủ dược liệu”, rào cản chính nằm ở hành lang pháp lý chưa rõ ràng. Nhiều địa phương gặp khó trong cấp mã số vùng trồng, quy hoạch nguyên liệu lớn hay cấp chứng nhận GACP-WHO - điều kiện bắt buộc để xuất khẩu. Chưa kể, việc bảo tồn giống gốc, ứng dụng khoa học công nghệ, bảo hiểm nông nghiệp và tín dụng chuyên biệt cho cây dược liệu vẫn còn lúng túng.

Một số loại dược liệu quý như sâm Lai Châu, theo ông Bùi Huy Phương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lai Châu, chưa được công nhận trong danh mục ADN quốc tế, gây cản trở xuất khẩu. Chưa có hệ thống khuyến nông chuyên biệt cho dược liệu, khiến bà con dù muốn cũng khó tiếp cận được kỹ thuật mới hay quy trình canh tác hiện đại.

Thảo quả - dược liệu đang có nhu cầu cao trên thị trường. Ảnh minh họa

Để cây dược liệu thực sự trở thành cánh cửa thoát nghèo, thậm chí làm giàu cho đồng bào miền núi, cần những giải pháp đồng bộ và dài hạn. Trước tiên, cần có chiến lược phát triển ngành hàng dược liệu cấp quốc gia, với hệ thống pháp lý riêng, tách biệt khỏi lâm nghiệp hay y học cổ truyền. Nhà nước cần xây dựng cơ chế hỗ trợ từ giống, phân bón, kỹ thuật đến bảo hiểm, tín dụng ưu đãi.

Tiếp theo là đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị, từ sản xuất đến tiêu thụ. Các địa phương cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vùng nguyên liệu, xây dựng nhà máy sơ chế, chế biến đạt chuẩn GMP-WHO, kết hợp với xây dựng thương hiệu địa phương và xúc tiến thương mại bài bản.

Song hành với đó là phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu, từ cán bộ khuyến nông đến người dân trồng trọt. Tổ chức đào tạo, tập huấn kỹ thuật trồng, thu hái, sơ chế, bảo quản đạt chuẩn là việc bắt buộc nếu muốn nâng giá trị dược liệu.

Cuối cùng, cần ứng dụng mạnh khoa học công nghệ từ nhân giống bằng nuôi cấy mô, kiểm định dược chất, đến xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc số hóa. Đây là chìa khóa để sản phẩm dược liệu miền núi vượt ra khỏi ranh giới thị trường nội địa và chạm tới các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU.

Đối với dược liệu, Việt Nam hiện tiêu thụ nội địa khoảng 80.000 tấn mỗi năm, trong khi khả năng tự cung mới chỉ đáp ứng được 20-30%. Khoảng trống thị trường này là cơ hội vàng cho Tây Bắc nếu tổ chức được sản xuất bài bản theo chuỗi giá trị, xây dựng vùng trồng đạt chuẩn và đẩy mạnh chế biến sâu.

Hải Linh