Đóng

Chuyển dịch xúc tiến thương mại truyền thống sang tích hợp đa nền tảng

Với vai trò điều phối, Bộ Công Thương được kỳ vọng dẫn dắt, kết nối hệ sinh thái xúc tiến thương mại quốc gia, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và cách mạng công nghiệp 4.0, hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải chuyển dịch từ mô hình truyền thống sang tích hợp, đa nền tảng. Báo cáo "Xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch giai đoạn 2026-2030" do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) chủ trì soạn thảo, nhấn mạnh sự chuyển dịch này là yếu tố then chốt để thúc đẩy xuất khẩu bền vững, đạt mức tăng trưởng bình quân 13-16%/năm đến năm 2030.

"Rào cản" của xúc tiến thương mại truyền thống

Giai đoạn 2021-2025 chứng kiến những thành tựu đáng kể trong xúc tiến thương mại, với kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng trung bình 10,5%/năm, đạt hơn 370 tỷ USD vào năm 2024. Các hoạt động như hội chợ triển lãm, đoàn giao thương và hỗ trợ thông tin thị trường đã hỗ trợ hàng nghìn doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, báo cáo chỉ ra nhiều hạn chế của mô hình truyền thống, chủ yếu tập trung vào các hình thức trực tiếp như hội chợ, hội thảo, dẫn đến hiệu quả chưa cao và thiếu linh hoạt.

Theo bộ chỉ số TPCI (Trade Promotion Capacity Index) đánh giá 52 hiệp hội và trung tâm xúc tiến thương mại năm 2024, điểm trung bình về chuyển đổi số chỉ đạt 42%, thấp nhất trong 6 trụ cột năng lực. Hầu hết các đơn vị mới dừng ở mức "kế hoạch trên giấy", thiếu ứng dụng phần mềm chuyên sâu (25%) và tỷ lệ hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hoạt động số (36%). Quản lý dữ liệu cũng yếu kém, với điểm trung bình 46%, dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất, khiến thông tin thị trường phân mảnh và chậm cập nhật. Nguồn nhân lực hạn chế về kỹ năng số, ngoại ngữ và am hiểu thị trường quốc tế (điểm 59,6%) càng làm trầm trọng hóa vấn đề.

Hiện nhiều doanh nghiệp tâm lý ngại thay đổi, thiếu đầu tư vào xúc tiến thương mại số, dẫn đến phụ thuộc vào các kênh truyền thống. Ảnh: Đỗ Nga

Từ phía doanh nghiệp, báo cáo nhấn mạnh tâm lý ngại thay đổi, thiếu đầu tư vào xúc tiến thương mạisố, dẫn đến phụ thuộc vào các kênh truyền thống dễ bị gián đoạn bởi dịch bệnh hay biến động địa chính trị. Cơ chế chính sách cũng lạc hậu, như Quyết định 72/2010/QĐ-TTg và Thông tư 171/2014/TT-BTC, chưa theo kịp xu hướng, gây khó khăn trong triển khai. Kết quả là, dù xuất khẩu tăng, nhưng tỷ lệ đa dạng hóa thị trường chưa đạt mục tiêu, với Mỹ và EU vẫn chiếm tỷ trọng lớn (hơn 40%), trong khi châu Phi và Mỹ Latinh chỉ chiếm dưới 5%.

Theo các chuyên gia, những hạn chế này không chỉ làm giảm hiệu quả xúc tiến thương mại mà còn cản trở doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, nơi yêu cầu về bền vững và số hóa ngày càng cao.

Phân tích thêm những yếu tố tác động đến hoạt động xúc tiến thương mại, TS. Trương Thị Chí Bình - Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương, Bộ Công Thương cho biết, trong bối cảnh quốc tế và trong nước đòi hỏi sự chuyển dịch nhanh chóng. Trên bình diện toàn cầu, dịch chuyển địa chính trị, quy định bền vững (như EUDR của EU), thương mại dịch vụ xuyên biên giới và ứng dụng công nghệ mới (AI, dữ liệu lớn, IoT, blockchain) đang định hình lại thương mại.

Cách mạng công nghệ 4.0 khiến xúc tiến thương mại truyền thống trở nên lỗi thời, trong khi các nền tảng số như hội chợ ảo, công nghệ thực tế ảo và phân tích dữ liệu AI giúp tối ưu hóa tiếp cận khách hàng, giảm chi phí và tăng tính cá nhân hóa.

Bà Bình cũng chỉ ra, từ kinh nghiệm quốc tế được báo cáo trích dẫn những bài học từ các quốc gia cho thấy, Hàn Quốc và Singapore thành công nhờ tích hợp xúc tiến thương mại số, với nền tảng buyKOREA kết nối B2B toàn cầu. Thụy Sĩ sử dụng AI để cá nhân hóa tư vấn, trong khi Pháp đa dạng hóa dịch vụ theo chuỗi giá trị. Những mô hình này cho thấy xúc tiến thương mại tích hợp không chỉ đa nền tảng (trực tuyến-kết hợp trực tiếp) mà còn liên kết với đầu tư, du lịch và đổi mới sáng tạo, giúp tăng trưởng xuất khẩu bền vững.

“Trong nước, các chiến lược như Nghị quyết 57-NQ/TW về khoa học công nghệ và chuyển đổi số, cùng việc thực thi FTA (CPTPP, EVFTA), tạo động lực cho xúc tiến thương mại mới. Tuy nhiên, thu gọn đơn vị hành chính cấp tỉnh và yêu cầu bền vững đặt ra thách thức, đòi hỏi hệ sinh thái xúc tiến thương mại phải linh hoạt hơn” – bà Bình nêu.

Xúc tiến thương mại tích hợp, đa nền tảng: Động lực xuất khẩu

Báo cáo "Xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch giai đoạn 2026-2030" dự báo đến 2030, thương mại số sẽ chiếm 30% GDP, buộc xúc tiến thương mại phải chuyển dịch để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới như Halal, châu Phi, với trọng tâm là thông tin chuyên sâu và kết nối chuỗi cung ứng. Sự chuyển dịch này không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường (tăng tỷ trọng châu Phi và Mỹ Latinh lên 10%) mà còn nâng cao năng lực doanh nghiệp, từ sản xuất xanh đến marketing số, đảm bảo xuất khẩu bền vững.

Là đầu mối quốc gia về xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương đóng vai trò trung tâm trong việc dẫn dắt chuyển dịch, theo báo cáo. Với Cục xúc tiến thương mại làm nòng cốt, Bộ chịu trách nhiệm xây dựng khung pháp lý, như Đề án 1968/QĐ-TTg về ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2030, nhằm hiện đại hóa mạng lưới.

Báo cáo nhấn mạnh Bộ cần tăng cường phối hợp liên ngành để thống nhất chiến lược xúc tiến thương mại giúp kết nối trung ương-địa phương-hiệp hội. Điều này khắc phục tình trạng phân mảnh hiện nay, nơi các trung tâm địa phương phụ thuộc ngân sách hạn hẹp và thiếu liên kết.

Bộ cũng phải nâng cao năng lực hệ sinh thái, như đào tạo cán bộ về kỹ năng số (theo TPCI, điểm nhân lực chỉ 59,6%), phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia và khuyến khích hợp tác công-tư. Trong kế hoạch 2026-2030, Bộ sẽ ưu tiên ngân sách cho xúc tiến thương mại số, tăng từ mức hiện tại lên tương ứng tăng trưởng xuất khẩu, đồng thời thí điểm mô hình "Voucher xúc tiến thương mại " để doanh nghiệp tự chọn dịch vụ.

Sự chuyển dịch từ xúc tiến thương mại truyền thống sang tích hợp, đa nền tảng là tất yếu để Việt Nam duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu trong bối cảnh mới

Báo cáo đề xuất kế hoạch xúc tiến thương mại 2026-2030 với ngân sách dự kiến hơn 1.000 tỷ VND, tập trung 5 lĩnh vực chính. Trước hết, xúc tiến thương mại theo nhóm ngành ưu tiên như điện tử, dệt may-da giày, thực phẩm, gỗ, công nghệ thông tin, logistics và hàng hóa môi trường. Các hoạt động sẽ tích hợp số hóa, như nền tảng AI dự báo thị trường và hội chợ hybrid (mô hình tổ chức hội chợ kết hợp cả hình thức trực tiếp). 

Thứ hai, hỗ trợ đa dạng hóa thị trường, với trọng tâm châu Phi, Mỹ Latinh và Halal, qua thông tin chuyên sâu và kết nối người mua. Thứ ba, phát triển mạng lưới xúc tiến thương mại quốc gia, nâng cao vai trò thương vụ nước ngoài và trung tâm địa phương. Thứ tư, nâng cao năng lực chủ động của ngành hàng và địa phương, qua đào tạo chuyển đổi số-xanh. Thứ năm, đổi mới Chương trình cấp quốc gia, từ dàn trải sang tập trung chiều sâu, ưu tiên doanh nghiệp dẫn dắt và liên kết chuỗi ngành. Giải pháp thực hiện bao gồm hoàn thiện thể chế, tăng phối hợp liên ngành và nâng cao năng lực doanh nghiệp (hỗ trợ thương hiệu, chuỗi cung ứng bền vững).

Theo các chuyên gia, sự chuyển dịch từ xúc tiến thương mại truyền thống sang tích hợp, đa nền tảng là tất yếu để Việt Nam duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu trong bối cảnh mới. Báo cáo không chỉ phác thảo hạn chế mà còn vạch rõ đường hướng, với Bộ Công Thương làm trung tâm điều phối. Bằng cách đầu tư vào số hóa, bền vững và phối hợp hệ sinh thái, Việt Nam có thể biến thách thức thành cơ hội, khẳng định vị thế trên bản đồ thương mại toàn cầu. Doanh nghiệp, hiệp hội và chính quyền cần hành động đồng bộ để hiện thực hóa tầm nhìn này, góp phần xây dựng nền kinh tế tự cường, hội nhập.

Bộ Công Thương, với vai trò không chỉ điều phối mà còn định hướng, như thúc đẩy xúc tiến thương mại theo cụm ngành (dệt may-da giày, thực phẩm-chế biến), kết nối với FDI để dẫn dắt doanh nghiệp Việt lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị. Báo cáo "Xúc tiến thương mại giai đoạn 2021-2025 và một số định hướng chiến lược, kế hoạch giai đoạn 2026-2030" kiến nghị Bộ cụ thể hóa kế hoạch, rà soát quy chế phối hợp, đảm bảo xúc tiến thương mại tích hợp đa nền tảng trở thành động lực xuất khẩu.

 

Đỗ Nga