Đóng

Công nghiệp hỗ trợ: Chính sách đủ, nội lực doanh nghiệp còn thiếu

Chính sách công nghiệp hỗ trợ khá đầy đủ, song phần lớn doanh nghiệp Việt Nam nhỏ, thiếu vốn, công nghệ và quản trị, chưa khai thác hiệu quả cơ hội thị trường.

Thông tin được đưa ra tại Hội thảo Chuỗi cung ứng nội địa: Tăng tốc kết nối – đón vận hội mới do Sở Công Thương Hà Nội tổ chức sáng 19/9. Sự kiện nằm trong khuôn khổ Hội chợ triển lãm Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Hà Nội năm 2025 diễn ra từ ngày 17-19/9.

Nghị định 25, bổ sung cơ chế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp CNHT

Chia sẻ tại Hội thảo, ông Nguyễn Mạnh Linh, Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Công nghiệp, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, cho biết Việt Nam đã sớm có chủ trương phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Hội thảo chuỗi cung ứng nội địa: Tăng tốc kết nối - đón vận hội mới. Ảnh: N.T

Trước đây, có Quyết định 34/2007 về quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2010–2020; Quyết định 908 của Bộ Công Thương phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Khi Luật Quy hoạch ra đời, Chính phủ ban hành Nghị quyết 115 về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặt mục tiêu đến năm 2030 đáp ứng 70% nhu cầu nội địa, chiếm 14% giá trị sản xuất công nghiệp và có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Nhiều văn bản quan trọng khác như Nghị quyết 29 về công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay Quyết định 2015 về cơ cấu ngành Công Thương cũng khẳng định định hướng này.

Về chính sách khuyến khích, Chính phủ từng ban hành Quyết định 12/2011 và các văn bản hướng dẫn; sau đó, Nghị định 111/2015 về phát triển CNHT đã tạo hành lang pháp lý và ưu đãi cho doanh nghiệp. Ngày 17/7/2025, Nghị định 25 được ban hành, sửa đổi và bổ sung Nghị định 111 với nhiều điểm mới: mở rộng đối tượng được công nhận là doanh nghiệp CNHT; cụ thể hóa khái niệm hoạt động phát triển CNHT; tăng cường hỗ trợ chuyển giao công nghệ, thử nghiệm, chứng nhận chất lượng; đồng thời phát triển hạ tầng, đặc biệt là các trung tâm hỗ trợ công nghiệp tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Một điểm đáng chú ý của Nghị định 205 là cơ chế phân cấp cấp giấy xác nhận ưu đãi: doanh nghiệp nhỏ và vừa do UBND tỉnh/thành phố cấp, còn doanh nghiệp lớn do Bộ Công Thương thẩm định. Ngoài ra, Nghị định cũng bổ sung danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển.

Về chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, trước đây Chính phủ đã ban hành Quyết định 1556 về đề án trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, sau đó được nâng cấp thành Quyết định 68 về Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2016 – 2025.

Năm 2024, Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định 71 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 68, qua đó duy trì và mở rộng các chính sách hỗ trợ. Về cơ bản, chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ hiện nay gồm 5 nội dung trọng tâm và đang được triển khai thường xuyên, đồng thời khuyến khích các địa phương xây dựng chương trình riêng hoặc lồng ghép trong các kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, nâng cao trình độ công nghệ. Thực tế, nhiều tỉnh, Thành phố như Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc… đã chủ động ban hành các đề án hỗ trợ riêng, mang lại hiệu quả tích cực.

Doanh nghiệp CNHT cần bứt tốc

Đến nay, cả nước có khoảng 2.000 doanh nghiệp CNHT, riêng Hà Nội có hơn 900 doanh nghiệp, trong đó hơn 320 đơn vị có hệ thống sản xuất, sản phẩm đạt chuẩn quốc tế, đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia. Nhóm sản xuất linh kiện, phụ tùng giữ vai trò chủ chốt, cung cấp cho các ngành công nghiệp chế tạo như ô tô, xe máy, cơ khí, điện – điện tử, với một số lĩnh vực đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, tạo lợi thế cạnh tranh so với hàng nhập khẩu.

Gian hàng tại Hội chợ triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội năm 2025. Ảnh: N.T

Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hiếm có khi chuỗi cung ứng toàn cầu dịch chuyển, mở ra khả năng tham gia sâu hơn vào sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu, thay vì chỉ dừng ở lắp ráp. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa hiện mới đạt 36,6%, thậm chí dưới 30% ở lĩnh vực điện tử và linh kiện. Những rào cản chính vẫn là tiêu chuẩn kỹ thuật, dữ liệu minh bạch và chất lượng sản phẩm.

Sau gần 20 năm, hệ thống chính sách về CNHT đã tương đối đầy đủ, song kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước vẫn lỏng lẻo, chưa hình thành chuỗi cung ứng ổn định. Theo bà Trần Thanh Hòa, Trưởng ban Kết nối giao thương, Liên minh Hỗ trợ Công nghiệp Việt Nam (VISA), khảo sát 300 doanh nghiệp CNHT trong nước và 40 nhà mua hàng quốc tế (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc) cho thấy rào cản lớn nhất là giá thành chưa cạnh tranh, chênh lệch tiêu chuẩn chất lượng, hạn chế tài chính – công nghệ, thiếu thông tin kết nối và niềm tin hợp tác.

Thực tế, 88% doanh nghiệp CNHT hiện thuộc nhóm vi mô, nhỏ và vừa; chỉ 10% đạt mức tự động hóa, khoảng 20% có chứng chỉ ISO hoặc chứng nhận tương đương. Nhu cầu linh kiện, phụ tùng trong nước mới được đáp ứng khoảng 10%, tỷ lệ nội địa hóa chung chỉ 15–20%, riêng ngành ô tô từ 5–20%.

Dù vậy, cơ hội vẫn rộng mở khi dịch Covid-19 cho thấy sự cấp thiết phải tìm nguồn cung ứng tại chỗ. Cùng với đó, hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn, công nghệ, xúc tiến thương mại. Bà Hòa cho rằng, để tận dụng cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam cần được hỗ trợ về quản trị vận hành, marketing – bán hàng và quản lý chất lượng, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của tập đoàn FDI. VISA cùng các hiệp hội, cơ quan quản lý cam kết đồng hành để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và sức cạnh tranh toàn cầu.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Hoàng Dũng, Phó Tổng giám đốc Công ty CP Phần mềm Digiwin Việt Nam, chia sẻ: các nhà mua hàng quốc tế thường yêu cầu minh bạch toàn bộ thông tin về nguyên vật liệu, tồn kho, chất lượng, hồ sơ giao dịch, đơn hàng. “Nếu chỉ quản lý thủ công bằng Excel hay giấy tờ, rất dễ sai sót, thiếu minh bạch. Doanh nghiệp cần ứng dụng công nghệ số, hệ thống quản trị dữ liệu, mô hình nhà máy thông minh để tạo niềm tin với đối tác FDI”, ông nhấn mạnh.

Các chuyên gia nhận định, CNHT Việt Nam đang ở ngưỡng cửa bứt phá nhưng vẫn đối diện nhiều thách thức về tiêu chuẩn, chất lượng, quản trị và hợp tác. Đổi mới công nghệ, minh bạch hóa dữ liệu, nâng cao năng lực quản lý, cùng với việc Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ, sẽ là chìa khóa để CNHT trở thành nền tảng vững chắc cho tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, giúp Việt Nam tham gia sâu và bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bà Trần Thanh Hòa, Trưởng ban Kết nối giao thương, Liên minh Hỗ trợ Công nghiệp Việt Nam (VISA) đề xuất:

Cần xây dựng tam giác liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp CNHT nội địa, tạo thành một tam giác liên kết. Cơ chế này sẽ giúp rút ngắn khoảng cách về yêu cầu và năng lực cung ứng. Thúc đẩy hình thành các cụm công nghiệp hỗ trợ gắn với khu công nghiệp, từ đó giảm chi phí logistics và tăng hiệu quả chuỗi cung ứng.

Nguyễn Hạnh