Buổi sáng hàng ngày, cửa hàng pop-up (những cửa hàng tạm thời) OCOP trong khuôn viên khu chợ cóc đường 800A (phường Nghĩa Đô, Hà Nội) luôn sầm uất của Hà Nội thu hút đông đảo khách ghé thăm. Trong không gian trưng bày ấy, rực rỡ sắc màu của các sản phẩm OCOP nổi bật của các địa phương. Tất cả đều được dán tem chứng nhận OCOP.
Trong vài năm gần đây, những cửa hàng mô hình này đã xuất hiện ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Hội An… và nhanh chóng trở thành những “phòng thí nghiệm thị trường” đầy sáng tạo cho sản phẩm OCOP.
Ở những điểm bán này, mỗi sản phẩm được quan sát và đánh giá toàn diện, từ thiết kế bao bì, cách trưng bày, mức giá, cho đến phản ứng của khách du lịch và cư dân đô thị. Mô hình bán thử này cho phép nhà sản xuất nhận phản hồi trực tiếp của khách hàng và điều chỉnh kịp thời trước khi sản xuất quy mô lớn.
Các quầy hàng OCOP ở các siêu thị tại các thành phố lớn là "phòng thí nghiệm" cho sản phẩm OCOP. Ảnh: Nguyễn Linh
Ông Nguyễn Minh Dũng, chủ cửa hàng OCOP nông sản trong chợ 800A cho biết: “Khi nhập sản phẩm mới, chúng tôi thường chỉ lấy 10 - 20 gói, trưng bày trong một cửa hàng pop-up khoảng một, hai tuần. Nếu bán chạy, chúng tôi mới ký hợp đồng lâu dài. Nếu chậm, chúng tôi thay đổi vị trí, điều chỉnh bao bì, thậm chí đề xuất giảm giá để xem phản hồi của khách. Đây chính là cách thử thị trường ít rủi ro nhất cho cả chúng tôi và nhà sản xuất”.
Nhờ hình thức tiếp cận trực tiếp này, sản phẩm OCOP được giới thiệu tới nhiều đối tượng khách hàng hơn, đặc biệt là khách du lịch - những người thường tìm kiếm quà tặng mang đậm bản sắc vùng miền. Một nhân viên cửa hàng OCOP ở Hà Nội chia sẻ: “Khách du lịch rất quan tâm đến nguồn gốc sản phẩm. Khi thấy tem chứng nhận OCOP rõ ràng, họ tin tưởng hơn và sẵn sàng trả giá cao hơn cho một món quà tặng có thương hiệu”.
Bên cạnh đó, các hội chợ đặc sản hay tuần hàng OCOP tại các trung tâm thương mại lớn cũng hoạt động giống như một chuỗi pop-up store quy mô lớn, nơi hàng nghìn sản phẩm được “đem ra thí nghiệm” với thị trường chỉ trong vài ngày.
Mô hình này mang lại nhiều lợi thế. Chủ thể sản xuất có thể thu thập phản hồi nhanh, điều chỉnh mẫu mã, bao bì và giá bán kịp thời. Cửa hàng đặc sản cũng trở thành kênh quảng bá hiệu quả, giúp xây dựng thương hiệu và tạo liên kết giữa hợp tác xã, hộ sản xuất với hệ thống bán lẻ hiện đại. Tuy nhiên, con đường này không chỉ có hoa hồng. Chi phí thuê mặt bằng, vận chuyển và trưng bày khá cao. Nhiều chủ thể OCOP còn hạn chế về kỹ năng marketing, chưa kể sản lượng sản xuất nhỏ và chất lượng chưa đồng đều khiến việc duy trì nguồn cung cho các cửa hàng đặc sản trở nên khó khăn. Để vượt qua, các cơ sở sản xuất phải chuẩn hóa quy trình, đầu tư bao bì, trong khi chính quyền địa phương cần hỗ trợ về thiết kế, kiểm định chất lượng và truyền thông.
Bà Lò Thị Sương, chủ cơ sở sản xuất Lò Thị Sương nổi tiếng với sản phẩm thịt trâu gác bếp Phong Sương chia sẻ: “Chúng tôi vốn chỉ quen với chợ phiên vùng cao. Khi được tham gia chương trình cửa hàng pop-up OCOP, tôi mới cảm nhận rõ nhu cầu của khách thành phố. Họ không chỉ mua đặc sản để thưởng thức, mà còn tìm câu chuyện, tìm dấu ấn văn hóa”.
Thành công của pop-up store OCOP không chỉ nằm ở doanh số. Quan trọng hơn, nó mở ra hướng tiếp thị hiện đại cho sản phẩm nông thôn, giúp các hợp tác xã học cách kể câu chuyện thương hiệu.
Câu chuyện của bà Lò Thị Sương, chủ cơ sở sản xuất thịt trâu gác bếp Phong Sương ở Điện Biên, cho thấy rõ sức mạnh của mô hình “cửa hàng đặc sản - phòng thí nghiệm thị trường”. Trước đây, thịt trâu gác bếp chỉ bán cho khách du lịch đến tận bản, sản lượng nhỏ và phụ thuộc vào mùa du lịch. Từ khi đưa sản phẩm vào các cửa hàng đặc sản tại Hà Nội và tham gia nhiều hội chợ OCOP, tình hình đã thay đổi rõ rệt.
“Sau khi sản phẩm được trưng bày trong pop-up store ở Hà Nội, chúng tôi mạnh dạn thử mức giá cao hơn một chút so với bán tại bản và vẫn bán được. Khách thành thị rất thích nếm thử. Nếu có nhân viên giới thiệu, giải thích cách làm truyền thống và gia vị mắc khén, tỉ lệ mua hàng tăng hẳn”, bà Sương chia sẻ. Bà cho biết những lần đưa hàng vào các cửa hàng đặc sản cũng là cơ hội để kiểm tra phản ứng của khách với hương vị, độ cay và cả bao bì đóng gói.
Bà Lò Thị Sương, chủ Cơ sở sản xuất, kinh doanh Lò Thị Sương. Ảnh: Lê Trang
“Khó khăn nhất là bao bì và tiêu chuẩn vệ sinh. Để phù hợp với thị trường thành thị, chúng tôi phải đầu tư thiết kế, in ấn, đóng gói hút chân không, bảo quản lạnh. Chi phí tăng, nhưng bù lại, sản phẩm giữ được hương vị lâu và trông chuyên nghiệp hơn. Việc đáp ứng giấy tờ truy xuất nguồn gốc, kiểm định chất lượng cũng buộc chúng tôi phải học hỏi nhiều”, bà Sương cho biết. Đại diện một cửa hàng OCOP tại phường Hoàn Kiếm, nơi đang bán sản phẩm của bà, đánh giá: “Thịt trâu gác bếp Phong Sương có hương vị đặc trưng, dễ thuyết phục khách du lịch. Điểm cộng lớn là câu chuyện văn hóa của người Thái ở Điện Biên, nếu kể khéo léo sẽ nâng giá trị sản phẩm lên rất nhiều”.
Từ thực tế này, có thể thấy, bao bì và nhận diện thương hiệu chính là “tấm hộ chiếu” để sản phẩm bước vào thị trường lớn. Pop-up store cũng cho phép thử nhiều mức giá, mẫu mã trước khi mở rộng sản xuất, giúp giảm rủi ro vốn. Quan trọng không kém là cách kể câu chuyện văn hóa, người tiêu dùng thành thị và khách quốc tế ưa chuộng sản phẩm gắn liền với bản sắc và câu chuyện hun khói, vị mắc khén của người Thái chính là giá trị gia tăng cho thịt trâu gác bếp Phong Sương.
Bà Lò Thị Sương tự tin nói: “Mỗi lần mang sản phẩm vào cửa hàng đặc sản, tôi thấy rõ khách hàng ngày càng hiểu và trân trọng hương vị của vùng núi chúng tôi. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục giữ nghề truyền thống, đồng thời đổi mới để đi xa hơn”.
Pop-up store OCOP, từ những phiên chợ nhỏ, đang trở thành mô hình thương mại sáng tạo, giúp nông sản miền núi bước ra khỏi ranh giới địa phương, chạm tới trái tim người tiêu dùng cả nước.
Dù mang lại tín hiệu tích cực, mô hình pop-up OCOP vẫn bộc lộ nhiều thách thức. Thời gian bán hàng ngắn, địa điểm thuê tạm khiến việc duy trì khách hàng lâu dài gặp khó khăn. Nhiều hợp tác xã sau khi kết thúc phiên hàng lại quay về tình trạng cũ: thiếu kênh phân phối ổn định.