Chia sẻ với phóng viên Báo Công Thương, đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân - đoàn TP. Hồ Chí Minh đánh giá, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đã thể hiện bước phát triển mới trong tư duy lý luận và thực tiễn lãnh đạo đất nước.
Theo ông, tinh thần đổi mới, tư duy đột phá và tầm nhìn chiến lược xuyên suốt trong dự thảo đã khẳng định bản lĩnh của Đảng, mở ra hướng đi cụ thể để Việt Nam bứt phá trong giai đoạn tới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và kinh tế tư nhân làm động lực chính, hướng tới phát triển xanh, bền vững và tự chủ chiến lược.
- Ông đánh giá như thế nào về tinh thần đổi mới và tầm nhìn chiến lược trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ tinh thần đổi mới, tư duy đột phá và tầm nhìn chiến lược phát triển đất nước giai đoạn mới. Lần đầu tiên trong lịch sử, Đại hội gộp ba báo cáo quan trọng gồm: Báo cáo Chính trị, Báo cáo Kinh tế - Xã hội và Báo cáo Xây dựng Đảng thành một văn kiện duy nhất; thể hiện tư duy tổng hợp, thống nhất giữa phát triển kinh tế, chính trị và công tác xây dựng Đảng. Sau khi hoàn thiện dự thảo, Ban soạn thảo đã xây dựng chương trình hành động chi tiết để cụ thể hóa các mục tiêu, bảo đảm Nghị quyết Đại hội sớm đi vào cuộc sống.
Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đại biểu, thăm các gian hàng tại Triển lãm thành tựu kinh tế tư nhân. Ảnh: Phạm Thắng.
Dự thảo Văn kiện lần này có chiều sâu cả về lý luận và thực tiễn, khi đúc kết bài học kinh nghiệm quý báu từ 40 năm đổi mới, rút ra 5 bài học lớn mang tầm lý luận, từ đó hình thành chiến lược phát triển trong giai đoạn mới. Trên cơ sở kế thừa và phát huy thành tựu của các nhiệm kỳ trước, Đảng xác định, cần tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển trọng tâm sang phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và kinh tế xanh.
Một điểm mới mang tính nền tảng là việc “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới”. Lần đầu tiên Đảng ta xác định “lý luận về đường lối đổi mới” là một bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng, đánh dấu bước phát triển quan trọng về nhận thức lý luận, bản lĩnh chính trị của Đảng trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Về tầm nhìn chiến lược, Dự thảo Văn kiện đưa ra hai động lực then chốt: Lấy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo làm động lực chính để nâng cao năng suất lao động và hình thành mô hình tăng trưởng mới. Coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đặc biệt, Văn kiện xác định rõ ba trụ cột phát triển Kinh tế - xã hội - môi trường được đặt ngang hàng và là trung tâm của mọi chính sách, thể hiện cách tiếp cận toàn diện, bền vững
- Dự thảo Văn kiện xác định rõ: Phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số là động lực chính; kinh tế tư nhân là “động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, văn kiện cần làm rõ thêm những nội dung nào, thưa ông?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Qua các Đại hội XI, XII và đặc biệt là Đại XIII, Đảng ta từng bước hình thành và nhất quán chủ trương chuyển dịch mô hình tăng trưởng theo hướng, dựa vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, coi đây là động lực chủ yếu của phát triển bền vững.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, sự chuyển dịch này thể hiện rõ nét hơn khi Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị đã khẳng định, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính cho phát triển kinh tế.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng các đại biểu thăm các gian hàng tại triển lãm thành tựu kinh tế tư nhân. Ảnh: Thu Hường.
Định hướng này hoàn toàn phù hợp với thực trạng của Việt Nam, bởi mô hình tăng trưởng cũ dựa vào ba trụ cột là vốn đầu tư công, khai thác tài nguyên và khu vực FDI - đã bộc lộ giới hạn. Các “điểm nghẽn” về năng suất lao động, hiệu quả đầu tư và tính tự chủ của nền kinh tế vẫn chưa được tháo gỡ. Chỉ khi phát triển khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động và chuyển đổi số toàn diện, Việt Nam mới có thể phát triển bền vững và bắt kịp với các quốc gia tiên tiến.
Để hiện thực hóa các mục tiêu này, Văn kiện cần làm rõ hơn về thể chế hóa chủ trương của Đảng, đưa các khái niệm mới như: Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững theo tiêu chuẩn ESG vào khung chính sách cụ thể. Nếu không thể chế hóa, những khái niệm này sẽ khó đi vào thực tiễn, khó tạo được sự thống nhất trong nhận thức và hành động từ Trung ương đến địa phương, từ doanh nghiệp đến người dân
- Thưa ông, trong bối cảnh thế giới biến động nhanh, Đảng cần làm gì để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hội nhập sâu hơn?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Trong bối cảnh thế giới đang biến động nhanh, chuyển từ đơn cực sang đa cực, Việt Nam cần duy trì “trạng thái cân bằng động”, vừa linh hoạt thích ứng với những thay đổi quốc tế, vừa kiên định mục tiêu phát triển ổn định, bền vững.
Điểm cốt lõi là phát huy sức mạnh của “ngoại giao cây tre” - mềm dẻo, linh hoạt nhưng kiên cường và nhất quán về nguyên tắc. Việt Nam cần làm bạn với tất cả các nước, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên hàng đầu, chọn bên, không chọn phe trong quan hệ quốc tế, từ đó giữ vững thế cân bằng, ổn định.
Bên cạnh đó, hội nhập sâu rộng phải đi đôi với chủ động phát triển nội lực khoa học công nghệ. Việt Nam cần đầu tư cho nghiên cứu, phát triển và “nội địa hóa” các lĩnh vực khoa học trọng điểm, trong đó có khoa học hành vi và kinh tế học hành vi. Đây là những ngành giúp nâng cao năng lực hoạch định chính sách, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, thích ứng nhanh với thời đại số.
- Dự thảo Văn kiện nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế phát triển toàn diện, đồng bộ; xác định “bảo vệ môi trường” cùng với phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ trung tâm. “Đối ngoại, hội nhập quốc tế” được đưa thành nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong quá trình triển khai thực hiện sau Đại hội, đâu là những “nút thắt” lớn về thể chế mà văn kiện cần tập trung khắc phục? Ông có góp ý gì thêm để văn kiện đảm bảo tính hành động, khả thi và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Theo tôi “nút thắt” lớn nhất về thể chế, môi trường và hội nhập quốc tế chính là việc chưa cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, định hướng của Đảng thành cơ chế, chính sách và chương trình hành động cụ thể.
Về thể chế môi trường, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện và triển khai Luật Bảo vệ môi trường 2020, cần bổ sung và đồng bộ các thể chế liên quan đến thích ứng biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.
Đơn cử, Quyết định 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050 phải được cụ thể hóa bằng các chương trình hành động thống nhất, có sự phối hợp rõ ràng giữa Trung ương và địa phương.
Với quan điểm chuyển từ “môi trường bị động” sang “kinh tế môi trường chủ động” được thể hiện trong Quyết định 1894/QĐ-TTg, Nhà nước cần sớm triển khai các mô hình phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; lồng ghép và nội địa hóa các tiêu chí ESG vào chính sách phát triển doanh nghiệp, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào mục tiêu phát triển bền vững.
Dự thảo Văn kiện nêu bốn chuyển đổi chiến lược: Chuyển đổi số - chuyển đổi xanh - chuyển đổi năng lượng - chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, chuyển đổi xanh và chuyển đối năng lượng cần được thể chế hóa rõ ràng hơn, nhất là mô hình giảm phát thải bằng 0 (Net Zero) mà Việt Nam đã cam kết tại COP26. Những cam kết này phải được cụ thể hóa bằng quy hoạch, lộ trình và cơ chế giám sát minh bạch, để tạo niềm tin với cộng đồng quốc tế, huy động được nguồn lực trong nước và quốc tế phục vụ phát triển bền vững.
Đại biểu NGuyễn Quang Huân - đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: MH.
Tôi cũng cho rằng, các quyết định quan trọng như Quyết định 888/TTg, Quyết định 896/TTg ban hành tháng 7 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ và bản đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) cần được thể chế hóa mạnh mẽ hơn trong hệ thống pháp luật, gắn với trách nhiệm cụ thể của từng bộ, ngành và địa phương. Có như vậy, Văn kiện Đại hội XIV mới thực sự đảm bảo tính hành động, khả thi, đồng bộ trong tổ chức thực hiện, đưa mục tiêu “phát triển nhanh, bền vững gắn với bảo vệ môi trường” đi vào thực chất, trở thành động lực phát triển mới của đất nước.
- Ông đánh giá ra sao về mức độ phù hợp và khả thi của chủ đề Đại hội XIV, trong bối cảnh đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức mới? Những đổi mới lớn nhất trong tư duy chiến lược thể hiện trong Dự thảo Văn kiện là gì, thưa ông?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Chủ đề của Đại hội XIV lần này vừa ngắn gọn, súc tích, khơi gợi được tinh thần, ý chí và khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Sau 40 năm đổi mới, đất nước đã tích lũy được thế và lực mới. Đây là thời điểm cần bứt phá, chuyển từ “tích lũy” sang “phát triển”, hiện thực hóa mục tiêu quốc gia phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Chủ đề Đại hội vì thế rất phù hợp và khả thi, khi vừa thể hiện bản lĩnh tự cường, vừa định hướng rõ con đường, cách thức để chúng ta bứt phát.
Về đổi mới trong tư duy chiến lược, điểm nổi bật nhất là xác định rõ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực then chốt của phát triển, đồng thời đặt kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Đây là bước phát triển lớn trong nhận thức, thể hiện tư duy kiến tạo, chủ động thích ứng với thời đại; kết hợp hài hòa giữa tự chủ chiến lược, tự cường dân tộc và hội nhập sâu rộng quốc tế - ba trụ cột bảo đảm cho Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Tại hội nghị lần thứ 12, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã quyết định tích hợp nội dung 3 Văn kiện gồm: Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo về tổng kết xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng thành Báo cáo chính trị theo một trục xuyên suốt, thống nhất, đồng bộ để trình Đại hội XIV của Đảng.
Sự hợp nhất các văn kiện quan trọng, những điều chỉnh trong chủ đề, kết cấu, và những bổ sung, phát triển trong đánh giá kết quả, định hình mục tiêu, quan điểm, giải pháp đã thể hiện một cách sâu sắc, toàn diện tư duy đổi mới, đột phá của Đảng.
Đây là những cơ sở vững chắc để Đại hội XIV của Đảng định hướng cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn mới, hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh - thịnh vượng - hạnh phúc.