Trao “cần câu cơm” cho người dân vùng núi
Đào tạo nghề đang trở thành chìa khóa quan trọng trong hành trình giảm nghèo bền vững ở các xã miền núi tỉnh Quảng Ngãi. Không chỉ mang đến cơ hội nâng cao kỹ năng sản xuất, cải thiện thu nhập, các lớp học nghề còn mở ra hướng đi mới cho đồng bào dân tộc thiểu số, giúp họ chủ động vươn lên thoát nghèo, từng bước ổn định và nâng cao đời sống.
Câu chuyện của anh Đinh Văn Hùng, dân tộc Cor ở xã Sơn Thượng Tây, là minh chứng sống động. Xuất phát điểm từ hộ nghèo, cuối năm ngoái anh được hỗ trợ hai con bò sinh sản từ Chương trình Quốc gia giảm nghèo bền vững. Nhưng quan trọng hơn, anh còn được tham gia khóa học chuyên sâu về chăn nuôi gia súc, gia cầm kéo dài 3 tháng. Từ chỗ bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm, anh Hùng đã nắm chắc kiến thức về dinh dưỡng, phòng bệnh và chăm sóc đàn bò. Nhờ vậy, anh mạnh dạn vay vốn ưu đãi, mua thêm bò, dần hình thành mô hình kinh tế bền vững cho gia đình.
Các khóa học chuyên sâu về chăn nuôi gia súc, gia cầm giúp người dân miền núi tỉnh Quảng Ngãi tự tin trong chăn nuôi. Ảnh: Đông Huyền
Những chia sẻ giản dị của anh khiến nhiều người thấm thía giá trị của việc học nghề: “Con bò hay bị bệnh lở mồm long móng, bị đi ngoài. Trước tôi không biết cách xử lý, giờ học xong thì đã có thể nhận biết, báo thú y xã để chữa trị kịp thời”. Chính những bài học cụ thể ấy đã biến lớp học nghề thành nơi khởi nguồn niềm tin mới.
Điều đáng chú ý là tỉnh Quảng Ngãi không đi theo một lối mòn, mà đa dạng hóa ngành nghề đào tạo sao cho phù hợp từng địa phương. Ở các xã có lợi thế nông nghiệp, bà con được học kỹ thuật trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi lợn, gà theo hướng an toàn sinh học. Người dân được hướng dẫn từ khâu chọn giống, chăm sóc, phòng bệnh cho đến tìm kiếm đầu ra. “Học và thực hành tại chỗ, có kết quả ngay, chúng tôi thấy giá trị và hiệu quả rõ rệt”, ông Đinh Hùng Sơn, một học viên, bày tỏ.
Với những xã có tiềm năng du lịch, các lớp nghề tập trung vào dịch vụ: nấu ăn, thuyết minh, làm sản phẩm lưu niệm từ thổ cẩm, đan lát. Nhiều nghệ nhân làng nghề còn trực tiếp đứng lớp, vừa truyền dạy tinh hoa văn hóa, vừa mở hướng làm kinh tế.
Dệt thổ cẩm truyền thống ở làng Teng, Quảng Ngãi. Ảnh: Đông Huyền
Làng Teng, nơi nổi tiếng với thổ cẩm, nay đã có những bạn trẻ mạnh dạn sáng tạo. Tấm vải truyền thống không chỉ dừng lại ở khung dệt mà trở thành váy cưới, túi xách, sản phẩm thời trang hiện đại, vừa giữ hồn bản sắc vừa bắt kịp xu hướng. Niềm vui ánh lên trong mắt em Phạm Thị Say khi khoe những tấm khăn, váy, áo tự tay dệt được: “Sau khi hoàn thành sản phẩm, em thấy rất vui và hạnh phúc”.
Từ những lớp học nhỏ bé, ánh sáng tri thức đang soi rọi lên từng bản làng. Không còn là sự hỗ trợ đơn thuần, mà là hành trình dài hạn, trao những chiếc “cần câu” cơm, giúp người dân chủ động thay đổi số phận. Những đôi bàn tay vốn chỉ quen với nương rẫy giờ đã biết ứng dụng kỹ thuật, biết tính toán bài toán kinh tế và quan trọng nhất là dám mơ về một cuộc sống khá giả hơn.
Hơn 5.000 người dân miền núi, nông thôn được tham gia học nghề
Theo kế hoạch đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2023 - 2025, Quảng Ngãi dự kiến sẽ có khoảng 5.170 người dân miền núi, nông thôn được tham gia học nghề. Con số 5.170 lao động không chỉ là thống kê khô khan, mà là hàng nghìn số phận có cơ hội đổi thay. Trong đó, hơn 4.600 lao động sẽ được đào tạo nghề nông nghiệp, tham gia tái cơ cấu ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch cộng đồng; 478 người sẽ được đào tạo nghề quản lý hợp tác xã, hướng tới mục tiêu 80% giám đốc hợp tác xã được đào tạo sơ cấp nghề.
Quảng Ngãi tăng cường công tác tuyên truyền để người lao động dân tộc thiểu số, miền núi tiếp cận với nhiều cơ hội việc làm. Ảnh: Đông Huyền
Lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi cho biết, nguồn kinh phí để hiện thực hóa mục tiêu này được bố trí từ ngân sách hằng năm, kết hợp với ba Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025. Trong đó, tiểu dự án “Phát triển giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn” tập trung hỗ trợ người nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo. Tiểu dự án “Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi” mở rộng cơ hội học nghề cho cả người Kinh thuộc diện khó khăn. Chương trình xây dựng nông thôn mới thì hỗ trợ học nghề dưới 3 tháng, giúp bà con chuyển đổi nghề nghiệp, nâng cao tay nghề.
Đặc biệt, nhóm lao động từng chấp hành xong án phạt tù cũng được tạo điều kiện học nghề, tái hòa nhập cộng đồng. Đây là chi tiết nhân văn, thể hiện quyết tâm không để ai bị bỏ lại phía sau.
Đến năm 2025, Quảng Ngãi đặt mục tiêu tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt trên 65%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt hơn 25%. Con số ấy có thể chưa cao so với đô thị, nhưng với địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, đó là cú hích mạnh mẽ. Bởi lẽ, mỗi tấm chứng chỉ, mỗi giờ thực hành đều là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa thoát nghèo bền vững.
Hình ảnh những người nông dân trước kia lầm lũi, quanh quẩn trong đói nghèo, nay chủ động áp dụng kỹ thuật mới, tham gia sản xuất hàng hóa, hay những cô gái dân tộc dệt thổ cẩm thành túi xách, áo cưới… chính là minh chứng sinh động cho sức sống từ các lớp học nghề. Không chỉ giúp bà con làm ăn hiệu quả hơn, chương trình còn góp phần bảo tồn giá trị văn hóa, khơi gợi niềm tự hào dân tộc, để mỗi sản phẩm làm ra không chỉ có giá trị kinh tế mà còn chứa đựng hồn cốt bản làng.
Trên những con dốc quanh co, từng bước chân của lớp trẻ đi học nghề đang để lại dấu ấn thay đổi. Bức tranh miền núi Quảng Ngãi hôm nay, vì thế, không còn là gam màu u tối của đói nghèo, mà đã điểm xuyết những gam màu tươi sáng từ tri thức, từ nghị lực và từ niềm tin vào ngày mai. Đào tạo nghề không chỉ trao “cần câu cơm”, mà còn gieo mầm cho một tương lai nơi vùng cao vươn mình mạnh mẽ, góp phần hiện thực hóa khát vọng giảm nghèo bền vững.