Đóng

Longform | ‘Đặt tên’ cho sản phẩm vùng dân tộc thiểu số

Từ mỳ Chũ đến vải thiều sấy khô, cà phê đến chén chè xanh mướt, nông sản vùng dân tộc và miền núi có thể nâng cao giá trị nhờ xác định được thương hiệu.

 

Từ sợi mỳ Chũ trắng ngần đến vải thiều sấy khô, từ mật ong hoa vải đến bao sản vật trứ danh khác… những sản phẩm mang đậm hồn quê hương vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã trở thành nguồn sinh kế, niềm tự hào của biết bao thế hệ. Nhưng để bước ra khỏi không gian làng nghề, khẳng định giá trị trên thị trường rộng lớn, chúng cần một “tấm hộ chiếu” đáng tin cậy. Chứng nhận OCOP chính là một trong những chiếc chìa khóa để nâng tầm sản phẩm, giúp bà con đổi đời.

HTX Mỳ Chũ Nam Thể, xã Nam Dương, Bắc Ninh, là làng nghề truyền thống duy nhất của huyện Lục Ngạn (cũ). Với lịch sử trăm năm cha truyền con nối, kết hợp công nghệ mới, HTX đã giữ trọn bản sắc mà vẫn thích ứng được với thị trường.

 

Đáng chú ý, nhờ được chứng nhận OCOP 3 sao, sản phẩm mỳ Chũ Nam Thể đã và đang được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia HTX đã thoát nghèo nhờ nghề mỳ Chũ. Nghề mỳ Chũ đã tạo việc làm cho khoảng 1.000 lao động địa phương, trong đó phần lớn là bà con dân tộc thiểu số. Nếu như trước đây nhiều hộ phải chật vật mưu sinh, thì nay nhờ có nghề mỳ, họ đã có thu nhập ổn định, thậm chí nhiều hộ đã vươn lên khá giả. Chứng nhận OCOP đã giúp cho sản phẩm tiêu thụ tốt trên thị trường, không chỉ bán lẻ, mà còn vào các bếp ăn công nghiệp.

Câu chuyện của gia đình anh Nguyễn Tất Thắng, thành viên HTX Mỳ chũ Trại Lâm, là minh chứng rõ ràng. Trước đây, vợ chồng anh bươn trải đủ nghề, từ làm thuê đến buôn bán nhỏ lẻ, nhưng thu nhập bấp bênh, đời sống luôn thiếu trước hụt sau. Bước ngoặt đến khi hợp tác xã hỗ trợ kỹ thuật và vốn, giúp anh đầu tư dây chuyền sản xuất mỳ gạo.

Những ngày đầu, gia đình chỉ sản xuất 10-20 kg mỳ mỗi ngày, tự đi chợ bán lẻ và giao hàng tận vùng sâu, vùng xa. Dù vất vả, họ không dừng lại. Nhờ cải tiến chất lượng, lựa chọn nguyên liệu gạo ngon và áp dụng quy trình sản xuất khép kín, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, sản phẩm mì chũ nhanh chóng tạo dựng uy tín trên thị trường.

Hiện mỗi tháng, gia đình anh Thắng sản xuất khoảng 3 tấn mỳ, thu nhập đạt 15-20 triệu đồng/tháng, giúp ổn định cuộc sống, xây dựng nhà cửa khang trang, nuôi con ăn học và hỗ trợ những hộ khác trong vùng cùng khởi nghiệp. Mỳ chũ từ bàn tay người dân trở thành công cụ giảm nghèo hiệu quả, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa và ẩm thực truyền thống.

Trong khi đó, HTX Phì Điền ở Bắc Ninh lại gắn với cây vải thiều - sản vật nổi tiếng. Bà con dân tộc thiểu số nơi đây tham gia HTX không chỉ giữ nghề mà còn được hỗ trợ kỹ thuật, cải tiến cách làm để sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn hiện đại. Đến nay, HTX đã có 3 sản phẩm đạt tiêu chuẩn từ 3-4 sao, tạo điều kiện để tiêu thụ tốt hơn trên thị trường.

Ông Phan Văn Nết – Giám đốc HTX Sản xuất thương mại và dịch vụ nông nghiệp Phì Điền thông tin, sau khi được chứng nhận OCOP, doanh thu của HTX tăng gần gấp đôi, sản phẩm được nhiều người biết đến hơn, và đặc biệt là mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường khó tính.

 

Chương trình OCOP không chỉ nâng tầm thương hiệu, mà còn trực tiếp cải thiện đời sống người dân. Tại Bắc Ninh, các HTX sản xuất mỳ chũ tạo việc làm cho trên dưới 1.000 lao động, thu nhập bình quân 9,5-10 triệu đồng/người/tháng. Đây là mức thu nhập đáng mơ ước với bà con vùng núi.

Tương tự, nhờ vào HTX Phì Điền, thu nhập bình quân hộ dân đạt 120-200 triệu đồng/năm. Nhiều gia đình thoát nghèo, có điều kiện cho con em học hành, đầu tư mở rộng sản xuất. OCOP đã thực sự trở thành động lực để người dân gắn bó với nghề, sống được bằng nghề.

 

Để tiếp tục nâng tầm sản phẩm, các HTX còn phối hợp với các cơ quan chức năng mở lớp tập huấn, giúp bà con nắm kỹ thuật, hiểu cách quản lý chất lượng và giữ gìn thương hiệu. Bà con dân tộc thiểu số không còn là “lao động thuê”, mà trở thành chủ thể sản xuất, gắn bó với nghề bằng niềm tự hào và ý thức trách nhiệm. Chính họ là những người truyền ngọn lửa giữ nghề, để các sản phẩm như mỳ Chũ Nam Thể, táo Phì Điền, vải thiều sấy khô… vừa là sản phẩm hàng hóa, vừa là biểu tượng văn hóa của địa phương.

Dù đạt nhiều kết quả, nhiều HTX đều đang đối diện với thách thức: hàng giả, hàng nhái gây ảnh hưởng đến uy tín; việc tiếp cận hệ thống siêu thị, kênh phân phối còn hạn chế; chính sách thuế đôi khi chưa thực sự tạo thuận lợi cho sản phẩm chế biến nông sản.

Các HTX kỳ vọng Nhà nước tiếp tục hỗ trợ về vốn, máy móc, bao bì, và đặc biệt là tăng cường kiểm soát thị trường để ngăn chặn gian lận thương mại. Cùng với đó là sự đồng hành từ các chương trình xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu… đưa sản phẩm OCOP lên các sàn thương mại điện tử, mở rộng kênh bán hàng hiện đại.

Dưới góc độ chuyên gia kinh tế, bàn về thế mạnh của sản phẩm vùng đồng bào dân tộc, TS Võ Trí Thành, Chuyên gia kinh tế đã chỉ ra một hướng đi đầy triển vọng, đó là kết hợp giá trị bản địa với xu thế tiêu dùng xanh, bền vững và nhân văn.

 

Ngày nay, người tiêu dùng, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và giới trẻ Gen Z không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn quan tâm đến câu chuyện đằng sau sản phẩm đó, khi hơn 90% khách du lịch hiện nay mong muốn tiêu dùng sản phẩm gắn với trải nghiệm, và hơn thế nữa, là để đóng góp cho cộng đồng.

Điều này mở ra một cơ hội lớn cho các sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bởi mỗi sản phẩm của đồng bào từ rượu, thổ cẩm đến thực phẩm truyền thống đều gắn với một câu chuyện, một nét văn hóa, một "hồn cốt" không thể thay thế.

"Các sản phẩm từ đồng bào dân tộc thiểu số thường gắn với thiên nhiên, trời đất và được tạo ra bởi những con người hiểu biết, gắn bó với vùng đất của mình. Đó chính là điểm mạnh. Tuy nhiên, điểm yếu là làm sao để người tiêu dùng tin tưởng và tiếp cận được sản phẩm đó", TS Võ Trí Thành nhấn mạnh.

 

Để nâng cao giá trị sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong kế hoạch phát triển của các địa phương, một trong những giải pháp hàng đầu trong thời gian tới chính là tìm đầu ra, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm để nâng cao giá trị.

Ông Nguyễn Văn Phương – Phó Giám đốc Sở Công Thương Bắc Ninh chia sẻ, tỉnh Bắc Ninh xác định thương mại điện tử và các mô hình bán hàng trực tuyến, đặc biệt là livestream, là xu hướng tất yếu. Đây không chỉ là kênh quảng bá mà còn là công cụ giúp sản phẩm của bà con tiếp cận nhanh chóng với người tiêu dùng cả nước. Bắc Ninh đã và đang triển khai nhiều khóa tập huấn cho nông dân, hướng dẫn từ việc lập gian hàng trên các sàn thương mại điện tử đến kỹ năng quảng bá sản phẩm qua hình ảnh, video và livestream. Khi người dân biết cách tận dụng nền tảng số, họ sẽ chủ động hơn, không chỉ phụ thuộc vào khâu trung gian.

 

Đặc biệt, Bắc Ninh khuyến khích sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Điển hình như lãnh đạo tỉnh trực tiếp đồng hành cùng bà con trong các buổi bán hàng trực tuyến, vừa quảng bá hình ảnh địa phương, vừa tạo động lực tinh thần cho người dân. Thực tế đã chứng minh, những mô hình như vậy tạo hiệu ứng truyền thông mạnh, thu hút người tiêu dùng và nâng cao uy tín cho sản phẩm.

Trong những năm gần đây, nhiều địa phương xác định phát triển du lịch làng nghề gắn với tiêu thụ sản phẩm OCOP là hướng đi bền vững. Các làng nghề truyền thống như mỳ Chũ (Bắc Ninh), gốm Bát Tràng (Hà Nội), vải thiều Lục Ngạn (Bắc Ninh)… không chỉ là nơi sản xuất mà còn trở thành điểm đến trải nghiệm văn hóa – du lịch độc đáo. Khi du khách được tận mắt chứng kiến quy trình làm ra sản phẩm, được trực tiếp thưởng thức và mua tại chỗ, giá trị hàng hóa tăng lên đáng kể, đồng thời mở rộng kênh tiêu thụ ổn định.

 

Nhiều tỉnh, thành đã xây dựng đề án kết hợp tour du lịch sinh thái, văn hóa với tham quan làng nghề, đưa du lịch trở thành cầu nối quảng bá sản phẩm. Các gian hàng OCOP được bố trí tại điểm đến, giúp khách vừa trải nghiệm vừa tiêu dùng, tạo nguồn thu kép cho người dân. Đây cũng là cách để sản phẩm làng nghề tiếp cận du khách quốc tế, gia tăng giá trị xuất khẩu tại chỗ. Với định hướng này, du lịch làng nghề sẽ không chỉ giữ gìn bản sắc truyền thống, mà còn thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, nâng cao thu nhập và tạo sinh kế bền vững cho bà con.

Từ mỳ Chũ Bắc Ninh đến vải thiều sấy khô, chương trình OCOP đã và đang chắp cánh cho sản phẩm vùng dân tộc và miền núi vươn xa. Không chỉ nâng cao giá trị hàng hóa, OCOP còn đem lại công ăn việc làm, thu nhập ổn định và niềm tự hào cho bà con. Đó là minh chứng sống động cho sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa bàn tay lao động của người dân và sự đồng hành của chính sách nhà nước.

Nội dung: Bảo Ngọc; Đồ hoạ: Thanh Vân