Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến tháng 9/2025, cả nước có 1.163 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm 518 cơ sở công lập và 645 cơ sở ngoài công lập. Năm 2024, hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh khoảng 2,43 triệu người, trong đó 430.000 ở trình độ cao đẳng, trung cấp và khoảng 2 triệu ở trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề khác. Tỷ lệ học viên có việc làm sau khi tốt nghiệp đạt trên 85%, riêng một số nhóm ngành kỹ thuật, công nghiệp, logistics đạt 90–95%.
Tuy nhiên, theo Cục Thống kê, cơ cấu lao động vẫn lệch, chỉ khoảng 28% lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật; trong khi doanh nghiệp, đặc biệt là các khu công nghiệp và khu chế xuất, đang thiếu hụt kỹ thuật viên cơ khí, điện – điện tử, logistics, vận hành thiết bị tự động và nhân lực cho sản xuất xanh.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển mình mạnh mẽ sang công nghiệp xanh, thương mại điện tử, logistics, năng lượng tái tạo và kinh tế số, mối quan hệ giữa nhà trường – doanh nghiệp – cơ quan quản lý nhà nước đang trở thành “tam giác phát triển” cho nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo Báo cáo dự báo nhân lực Việt Nam 2024–2030, năm 2025, nhiều ngành kinh tế mới dự báo sẽ cần tuyển thêm từ 200.000–250.000 lao động có tay nghề, trong đó ngành năng lượng tái tạo, logistics, thương mại điện tử và sản xuất chế biến xanh chiếm gần 60% tổng nhu cầu. Những con số này khẳng định vai trò trong cung ứng lao động cho thị trường trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào chất lượng, khoảng cách so với yêu cầu phát triển vẫn còn rất xa.
Tuy nhiên, theo ông Trương Anh Dũng - Cục trưởng Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) thừa nhận: “Chúng ta vẫn còn khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng. Nhiều trường còn thiếu nguồn lực đầu tư, công tác tuyển sinh còn hạn chế, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng thực tiễn. Đội ngũ giảng viên còn thiếu hụt lực lượng có trình độ cao, đặc biệt trong các ngành công nghệ mới. Chương trình đào tạo còn chậm đổi mới, chưa theo kịp tốc độ thay đổi công nghệ và chưa đạt chuẩn quốc tế.
Một rào cản khác nằm ở nhận thức xã hội. Nhiều phụ huynh và người lao động vẫn xem học nghề như một lựa chọn “thứ yếu” so với đại học. Tâm lý này khiến công tác tuyển sinh gặp khó khăn, làm giảm sức hút của giáo dục nghề nghiệp trong khi nhu cầu lao động kỹ năng lại tăng mạnh. Cùng với đó, nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi sự tham gia của doanh nghiệp và khu vực tư nhân còn hạn chế.
Chính vì vậy, dù tỷ lệ việc làm cao, nhưng phần lớn lao động sau đào tạo vẫn chỉ dừng lại ở mức đáp ứng các công việc giản đơn, chưa đủ sức đảm nhận những vị trí phức tạp đòi hỏi kiến thức công nghệ cao trong nền kinh tế tri thức. Theo đó, ông Dũng cho rằng, muốn thu hẹp, phải để doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào chương trình, vào quá trình giảng dạy, thậm chí vào đánh giá kết quả học tập.
Theo đại diện Trung tâm Dịch vụ việc làm TP.Hồ Chí Minh, phân tích: “Các doanh nghiệp xuất khẩu, logistics, năng lượng, thương mại điện tử… hiện rất chuộng lao động học nghề. Họ đánh giá cao khả năng làm việc thực tế, sẵn sàng vận hành dây chuyền hoặc công cụ số, thay vì mất thời gian đào tạo lại”.
Thực tế, để thích ứng với bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập, nhiều doanh nghiệp không còn đứng ngoài quá trình đào tạo. Ông Nguyễn Thanh Lam - Giám đốc điều hành Công ty Lâm Việt (Bình Dương), doanh nghiệp đã chuyển đổi xanh thành công trong ngành chế biến gỗ cho biết: “Chúng tôi đang cần hàng trăm lao động vận hành dây chuyền sản xuất đạt chuẩn FSC và quản lý phát thải GHG. Nếu chỉ tuyển người có bằng đại học mà thiếu kỹ năng nghề, doanh nghiệp phải đào tạo lại. Vì vậy, chúng tôi hợp tác trực tiếp với các trường nghề khu vực để đào tạo theo chuẩn của công ty”.
Nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế mới, tại hệ thống trường cao đẳng nghề nói chung, các trường nghề ngành Công Thương nói riêng, nhiều mô hình gắn kết doanh nghiệp đã được triển khai mạnh mẽ. Tại Trường Cao đẳng Thương mại Đà Nẵng đang tập trung tăng cường liên kết với doanh nghiệp để tạo việc làm bền vững, đặc biệt cho sinh viên vùng khó khăn.
Ông Nguyễn Tri Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Thương mại Đà Nẵng chia sẻ, để đáp ứng nhu cầu cấp thiết này, các giải pháp đồng bộ cần được triển khai. Cụ thể, nhà trường đã ký kết hợp tác với hơn 50 doanh nghiệp tại Đà Nẵng và các tỉnh lân cận, triển khai chương trình thực tập có lương và hỗ trợ việc làm sau tốt nghiệp. Ngoài ra, trường đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong đào tạo, như mô hình lớp học trực tuyến và thực hành trên các phần mềm quản lý hiện đại.
Tương tự, Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế, đơn vị thuộc Bộ Công Thương, cũng tiên phong đào tạo nghề điện công nghiệp, điện lạnh, cơ điện tử và kỹ thuật năng lượng xanh theo mô hình song hành. Học viên được học 6 tháng tại trường, 6 tháng tại doanh nghiệp, và được cấp chứng chỉ kỹ năng theo tiêu chuẩn châu Âu (chương trình hợp tác GIZ – Đức) và nhiều chương trình hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước khác.
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế Lê Văn Luận cho biết: “Các chương trình liên kết doanh nghiệp, hợp tác quốc tế giúp sinh viên không chỉ giỏi nghề, mà còn có kỹ năng số, hiểu tiêu chuẩn xanh, yếu tố mà thị trường lao động trong và ngoài nước”.
Sự phát triển của các ngành công nghiệp mới là xu thế tất yếu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập công nghệ. Những lĩnh vực như năng lượng tái tạo, công nghiệp bán dẫn hay điện hạt nhân đều có yêu cầu rất cao về nhân lực, không chỉ về trình độ chuyên môn mà còn về khả năng tiếp cận công nghệ, ngoại ngữ và kỹ năng làm việc trong môi trường toàn cầu.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, theo các chuyên gia, việc các bộ cùng phối hợp hành động sẽ tạo cú hích cho hệ sinh thái đào tạo nghề, giúp thị trường lao động Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển kỹ năng gắn liền với công nghệ và xanh hóa sản xuất.
Về phía Bộ Công Thương, theo ông Trần Quang Huy, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Bộ Công Thương, trước những yêu cầu đặt ra, Bộ Công Thương đã và đang triển khai một số nhóm giải pháp chiến lược: Thứ nhất, định hướng đào tạo gắn với quy hoạch ngành: Bộ đã tích hợp yêu cầu phát triển nhân lực vào các chiến lược lớn như Quy hoạch điện VIII, Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn và tăng trưởng xanh. Trên cơ sở đó, Bộ chỉ đạo các cơ sở đào tạo rà soát, xây dựng mới hoặc điều chỉnh các ngành/nghề đào tạo như kỹ thuật năng lượng tái tạo, kỹ thuật vi mạch, kỹ thuật điện hạt nhân, công nghệ vật liệu mới…
Thứ hai, thúc đẩy mô hình liên kết đào tạo với doanh nghiệp và viện nghiên cứu: Bộ khuyến khích các Trường thiết lập hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ cao và các viện nghiên cứu đầu ngành để xây dựng chương trình đào tạo theo nhu cầu thực tiễn, tổ chức đào tạo kép, cử chuyên gia doanh nghiệp tham gia giảng dạy, đồng thời mở rộng hoạt động nghiên cứu ứng dụng.
Thứ ba, chuẩn hóa chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế: Một số lĩnh vực đặc thù như điện hạt nhân, năng lượng sạch, bán dẫn sẽ được tiếp cận theo chuẩn IAEA, ABET hay các tiêu chuẩn châu Âu. Bộ Công Thương cũng đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế để chuyển giao chương trình đào tạo, công nghệ giảng dạy và tổ chức thực tập tại nước ngoài.
Thứ tư, ưu tiên đầu tư và ban hành chính sách đặc thù: Bộ đã đề xuất với các cơ quan liên quan bố trí nguồn lực đầu tư cho các trung tâm đào tạo kỹ thuật cao; đồng thời xây dựng cơ chế đặt hàng đào tạo nhân lực cho các ngành chiến lược, gắn với yêu cầu tuyển dụng thực tế từ phía doanh nghiệp.
Thứ năm, phát triển đội ngũ giảng viên và chuyên gia: Việc đào tạo lại, đào tạo nâng cao cho giảng viên các lĩnh vực mới là ưu tiên hàng đầu. Bộ đang triển khai các chương trình bồi dưỡng trong và ngoài nước, đồng thời xây dựng đội ngũ chuyên gia tư vấn hỗ trợ các trường phát triển chương trình, chuẩn hóa giáo trình và triển khai kỹ năng nghề.
Thứ sáu, truyền thông và định hướng nghề nghiệp hiệu quả: Để thu hút người học, Bộ Công Thương phối hợp với các trường và các cơ quan báo chí đẩy mạnh truyền thông, tổ chức diễn đàn ngành nghề, hội chợ việc làm công nghệ cao và kết nối sinh viên với thị trường lao động chất lượng cao trong nước và quốc tế.
Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, theo TS. Phạm Vũ Quốc Bình, Cục phó Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên cho biết: Giai đoạn tới, Cục Giáo dục nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất; tiếp tục gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp; mở rộng hợp tác quốc tế.
Điều đáng mừng là hệ thống chính sách cho giáo dục nghề nghiệp đang có những chuyển động quan trọng. Chỉ thị 21-CT/TW (2023) của Ban Bí thư xác định rõ mục tiêu đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Quyết định 247/QĐ-TTg (2025) của Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa kế hoạch hành động, trong khi Nghị quyết 71-NQ/TW (2025) của Bộ Chính trị đã xác định giáo dục đào tạo là một trong ba đột phá chiến lược.
Đặc biệt, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai sửa đổi Luật Giáo dục nghề nghiệp, trong đó lần đầu tiên bổ sung một chương riêng về vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp. Đây là bước thay đổi tư duy căn bản, doanh nghiệp không còn đứng ngoài quá trình đào tạo, mà trở thành chủ thể tham gia trực tiếp, cùng định hướng, đào tạo và sử dụng lao động.
"Chính sách mới này đã phá vỡ mô hình đào tạo tách rời thực tiễn vốn tồn tại lâu nay, để tiến tới một mô hình mới, nơi đào tạo gắn liền với sử dụng, trường nghề gắn với doanh nghiệp, nhà trường và thị trường cùng thở một nhịp. Điều này sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giữa kỹ năng được đào tạo và yêu cầu thực tế của nền kinh tế" - TS. Phạm Vũ Quốc Bình nói.
Bên cạnh đó, TS. Phạm Vũ Quốc Bình nhấn mạnh, một trọng tâm khác là sắp xếp lại mạng lưới trường nghề. Những cơ sở yếu kém, trùng lặp ngành nghề sẽ phải giải thể, trong khi những trung tâm đào tạo mạnh, hiện đại. Các trung tâm này sẽ trở thành “cứ điểm” cung ứng nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, logistics hay công nghiệp chế biến sâu.
Chương trình đào tạo cần được cập nhật thường xuyên, tích hợp kỹ năng số và kỹ năng sử dụng trí tuệ nhân tạo. Giáo dục nghề nghiệp không thể chỉ đào tạo lao động trong các ngành truyền thống, mà phải hướng tới hình thành lực lượng “lao động số”, có khả năng làm chủ máy móc hiện đại và thích ứng nhanh với biến động công nghệ.
TS. Phạm Vũ Quốc Bình: Chúng ta có thể nhập khẩu công nghệ, mua sắm thiết bị, nhưng tuyệt đối không thể nhập khẩu nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao chỉ có thể được đào tạo và rèn luyện tại chính quốc gia, trong những cơ sở giáo dục nghề nghiệp do chúng ta xây dựng. Đó không chỉ là một thông điệp mạnh mẽ, mà còn là sự thật hiển nhiên: nếu giáo dục nghề nghiệp không đủ sức đáp ứng, mọi chiến lược chuyển đổi số, tăng trưởng xanh hay công nghiệp hóa đều có nguy cơ bị kéo lùi.
Kỳ 3: Đại học không phải con đường duy nhất