Đóng

Longform | Từ màu xanh vùng cao đến thương hiệu chè Thái

Sau hợp nhất Bắc Kạn - Thái Nguyên, cây chè - niềm tự hào của vùng trung du miền núi đang hồi sinh mạnh mẽ, mang theo khát vọng làm giàu và gìn giữ hồn quê Việt.

 

Trên những triền đồi xanh mướt nối dài từ Phú Lương đến Đồng Hỷ, từ Định Hóa đến vùng Bằng Phúc - Đồng Phúc (tỉnh Bắc Kạn cũ), cây chè đang thì thầm kể câu chuyện hồi sinh sau hợp nhất tỉnh. Từng búp chè non khẽ lay trong nắng sớm, đón sương giăng trên nương, như mang theo hơi thở của đất trời và bàn tay cần mẫn của người dân vùng trung du miền núi.

Sau khi Bắc Kạn và Thái Nguyên hợp nhất, tỉnh mới có lợi thế về quy mô vùng nguyên liệu rộng lớn, khí hậu ôn hòa, độ ẩm cao. Đây điều kiện lý tưởng để cây chè sinh trưởng. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Thái Nguyên, toàn tỉnh hiện có hơn 24.000 ha chè, sản lượng khoảng 270.000 tấn búp tươi/năm, chiếm gần 15% diện tích chè cả nước. Trong đó, 12.000 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP, 3.000 ha sản xuất chè hữu cơ – con số thể hiện sự chuyển mình mạnh mẽ của ngành chè truyền thống.

 

Những vùng chè nổi tiếng như Tân Cương, La Bằng, Phú Đình, Trại Cài (Thái Nguyên), hay Bằng Phúc, Đồng Phúc (Bắc Kạn cũ) đang trở thành những “tọa độ xanh” trên bản đồ chè Việt Nam. Việc hợp nhất tạo điều kiện cho quy hoạch vùng nguyên liệu liên hoàn, kết nối chuỗi chế biến - tiêu thụ, và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Ở Thái Nguyên, có những vùng chè mang lại giá trị doanh thu 700 triệu đến một tỷ đồng/năm nhờ thổ nhưỡng, khí hậu đặc thù, sản xuất chè truyền thống, kinh nghiệm nhiều đời và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Năm 2024, chè mang lại giá trị khoảng 14,8 tỷ đồng, đây là nguồn thu rất lớn cho hàng trăm nghìn hộ dân, các hợp tác xã, các cơ sở chế biến, kinh doanh, thương mại mà không cây trồng nào trên địa bàn tỉnh đạt tới.

Chè Thái Nguyên có đặc trưng màu nước xanh, vị ngọt hậu, hương thơm dịu rất dễ phân biệt với các loại chè khác. Đây là lợi thế cạnh tranh, góp phần ổn định sinh kế cho hàng chục nghìn hộ dân, giảm hộ nghèo, làm giàu cho người dân khu vực nông thôn, phát triển kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.

Không chỉ có Shan tuyết, vùng núi phía Bắc Thái Nguyên còn nổi tiếng với chè hoa vàng. Đây là loài cây dược liệu quý hiếm, từng được người dân hái lá, phơi khô để uống, chữa cao huyết áp, tiểu đường. Nhờ giá trị đặc biệt, sản phẩm trà hoa vàng được định vị như một dòng “trà cao cấp bản địa”, giá hoa khô có thời điểm hơn 10 triệu đồng/kg.

 

Chị Hà Minh Đợi, Giám đốc Công ty TNHH Hà Diệp, phường Đức Xuân, một trong những đơn vị tiên phong phát triển vùng chè hoa vàng khu vực phía Bắc, cho biết: Khi cầm trên tay bông trà hoa vàng sau sấy hoa, giữ nguyên màu sắc và hương thơm, tôi biết mình đang nắm một sản phẩm vô giá.

Dù ban đầu gặp nhiều khó khăn về giống và kỹ thuật, chúng tôi vẫn quyết tâm đầu tư để biến trà hoa vàng thành thương hiệu mạnh, không chỉ ở Thái Nguyên mà còn vươn ra thị trường quốc tế. Đến nay, Công ty Hà Diệp đã xây dựng được vùng nguyên liệu hơn 3.000 gốc chè hoa vàng, sản phẩm đạt chuẩn OCOP 4 sao, có mặt ở nhiều tỉnh, thành và được lựa chọn làm quà tặng tại các sự kiện ngoại giao.

Bên cạnh đó, nhiều HTX khác như Hòa Thịnh, BK FOODS, Dương Phong… cũng tham gia, từng bước hình thành chuỗi giá trị sản xuất và chế biến chè hoa vàng. Sáp nhập hành chính đã mở ra một không gian phát triển rộng lớn hơn cho cây chè miền núi.

 

Từ lâu, cây chè không chỉ là sinh kế, mà còn là linh hồn của người Tày, Nùng, Dao ở vùng trung du. Trên nếp nhà sàn khói lam chiều, mùi chè sao quyện trong hương bếp lửa, tạo nên bản sắc riêng của miền đất này.

Chị Hoàng Thị Hương - một hộ trồng chè tại xã Đồng Phúc chia sẻ: “Trước kia mỗi sào chè chỉ cho thu nhập vài triệu đồng, nay nhờ hướng dẫn của cán bộ nông nghiệp, gia đình tôi áp dụng kỹ thuật canh tác sạch, bán qua HTX, thu nhập tăng gấp ba lần”.

Sau hợp nhất, chính quyền tỉnh đã xác định chè là cây trồng chủ lực trong chiến lược nông nghiệp xanh. Tỉnh đầu tư hạ tầng thủy lợi, đường giao thông nội đồng, khuyến khích người dân tham gia HTX để sản xuất tập trung, áp dụng công nghệ cao.

 

Hiện toàn tỉnh có hơn 500 HTX và tổ hợp tác chè, trong đó nhiều đơn vị đã tạo dựng thương hiệu mạnh như HTX Chè Hảo Đạt, HTX Tân Cương Xanh, HTX Chè Hương Việt, HTX La Bằng, HTX Thịnh An… Những đơn vị này không chỉ sản xuất mà còn chế biến sâu, đóng gói hiện đại, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.

Mỗi năm, Thái Nguyên xuất khẩu hơn 13.000 tấn chè, đạt kim ngạch khoảng 30–35 triệu USD, thị trường chủ lực là Pakistan, Đài Loan, Trung Đông, Nhật Bản, EU. Đặc biệt, nhiều sản phẩm đã có mặt trong các hệ thống siêu thị lớn trong nước như WinMart, Coopmart, Aeon và trên các sàn thương mại điện tử như Shopee, Sendo, Lazada.

 

Nếu ai đã từng đặt chân đến vùng Tân Cương – “thủ phủ chè” của Việt Nam, hẳn sẽ không thể quên hương vị ngọt hậu, đậm đà mà thanh tao của chén trà nơi đây. Chè Tân Cương đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Chỉ dẫn địa lý quốc gia, là một trong những sản phẩm OCOP tiêu biểu cấp quốc gia, được xem như “chuẩn mực vàng” của chè Việt.

Cùng với Tân Cương, các thương hiệu chè như La Bằng, Khe Cốc, Trại Cài, Phú Lương, Đại Từ… cũng đang khẳng định chỗ đứng riêng trên thị trường. Mỗi vùng chè mang trong mình một sắc thái khác nhau do thổ nhưỡng, độ cao và nguồn nước đặc trưng, tạo nên sự đa dạng phong phú cho thương hiệu “Chè Thái Nguyên”.

 

Chính quyền tỉnh đã triển khai Đề án Phát triển thương hiệu Chè Thái Nguyên giai đoạn 2025-2035, trong đó tập trung vào bốn trụ cột: Bảo tồn và phát triển vùng nguyên liệu đặc sản; Đầu tư công nghệ chế biến sâu, nâng giá trị sản phẩm; Xây dựng chuỗi du lịch văn hóa - sinh thái gắn với làng chè; Chuyển đổi số và xúc tiến thương mại quốc tế.

Lễ hội Văn hóa Trà Thái Nguyên – sự kiện được tổ chức định kỳ – không chỉ là ngày hội của những người trồng chè mà còn là dịp quảng bá tinh hoa văn hóa trà Việt. Tại đây, du khách được trải nghiệm hái chè, sao tẩm, thưởng trà, nghe nghệ nhân kể chuyện nghề – một hành trình chạm đến ký ức và niềm tự hào quê hương.

Bên cạnh đó, mô hình du lịch cộng đồng làng nghề chè đang phát triển mạnh. Ở La Bằng, Tân Cương, nhiều hộ dân mở homestay, phục vụ du khách trải nghiệm văn hóa trà, tham quan đồi chè, nghe đàn tính, hát then. Cây chè vì thế không chỉ mang lại kinh tế, mà còn giữ hồn văn hóa, gắn kết con người với đất đai, phong tục và bản sắc địa phương.

 

Trong chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2035, tỉnh Thái Nguyên đặt mục tiêu nâng tỷ trọng ngành chè lên 25% giá trị toàn ngành trồng trọt, mở rộng diện tích chè hữu cơ lên 5.000 ha, và đạt kim ngạch xuất khẩu 50 triệu USD/năm.

Bên cạnh đó, tỉnh dự kiến xây dựng “Trung tâm giới thiệu và xúc tiến thương mại chè Việt Nam” tại TP. Thái Nguyên, hướng tới trở thành trung tâm giao dịch chè khu vực Đông Nam Á. Cùng với đó, dự án “Bảo tàng Chè Việt Nam” và “Không gian văn hóa trà” đang được triển khai, góp phần đưa chè Thái trở thành biểu tượng văn hóa - du lịch tầm quốc gia.

Tại xã Đồng Phúc - nơi từng thuộc Bắc Kạn, người dân vẫn giữ tập quán “hái chè bằng tay, sao bằng chảo gang” để giữ trọn hương vị. Trong khi đó, ở vùng Tân Cương và Phú Lương, dây chuyền sao chè bán tự động, máy sấy tầng và hệ thống hút chân không được đưa vào vận hành, giúp giảm hao hụt và nâng chất lượng sản phẩm.

Từ những nương chè cũ kỹ một thời đến những nhà máy chế biến hiện đại hôm nay là hành trình dài của niềm tin và đổi mới. Màu xanh của chè đã vượt qua thời gian, kết nối quá khứ - hiện tại - tương lai.

Nghệ nhân trà La Bằng, bà Nguyễn Thị Hảo, xúc động chia sẻ: “Chúng tôi không chỉ làm ra sản phẩm, mà còn giữ một phần hồn đất Thái Nguyên trong mỗi chén trà”.

 

Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên cũng hỗ trợ chi phí cấp mã vùng trồng, tem điện tử, đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển sản phẩm OCOP nhằm nâng tầm thương hiệu “Đệ nhất danh trà”; hỗ trợ hoạt động chủ thể ngành chè quảng bá, tham gia hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước; khuyến khích phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái gắn với vùng chè.

Chính sách hỗ trợ của tỉnh tác động toàn diện tới ngành chè Thái Nguyên. Nông dân, các hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh chè trong tỉnh coi đây là “cú huých” cho ngành chè phát triển, khi được triển khai quyết liệt, đồng bộ, bài bản, tâm huyết thì không chỉ cung cấp cho xã hội nhiều sản phẩm chè, chế biến từ chè có chất lượng mà còn kỳ vọng đến năm 2030, sản phẩm từ cây chè mang lại giá trị 25 nghìn tỷ đồng, là nguồn thu lớn nhất mang lại cho phần đông dân cư trên địa bàn tỉnh.

Chè Thái - biểu tượng của sự cần cù và sáng tạo nay đã vươn xa đến hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, góp phần khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Từ triền đồi Tân Cương trĩu lá đến đồi chè Đồng Phúc ngát hương, cây chè vẫn là sợi dây bền chặt nối con người với đất, là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của vùng trung du miền núi sau hợp nhất, nơi “mỗi búp chè là một giọt xanh của hạnh phúc và niềm tin”.

Nội dung: Bảo Ngọc; Đồ hoạ: Ngọc Lan