Đóng

Longform | ‘Vàng xanh’ của núi rừng và hành trình đổi đời của đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Ninh

Từ rừng sâu hoang sơ, cây trà hoa vàng ở vùng núi Quảng Ninh đã trở thành “vàng xanh” giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo, mở ra tương lai no ấm.

Ở miền Đông Bắc Quảng Ninh, nơi những dãy núi đá phủ mây trắng quanh năm, có một loài cây từng ẩn mình trong tán rừng - trà hoa vàng. Người dân địa phương gọi nó là “kim hoa trà”, thứ cây dược liệu chỉ nở vàng rực một mùa trong năm, khi gió xuân chạm khẽ vào sườn núi. Từ chỗ chỉ được hái để hãm uống như một loại trà rừng, đến nay, trà hoa vàng đã bước ra ánh sáng, trở thành “vàng xanh” của vùng đất khó.

Theo người dân địa phương, để có trà ngon, khi hoa trà nở là phải hái ngay, nếu để lâu ong sẽ đến hút mật, làm hỏng nhụy, hoặc mưa xuống cũng làm giảm chất lượng trà. Hoa sau khi hái về sẽ được sao trong chảo với lửa nhỏ, đảo đều và dùng tay vò nhẹ để trà quăn và dậy mùi hương. Mỗi lần pha chỉ lấy một nhúm, tráng trà để loại hết bụi bẩn, sau đó mới dùng nước sôi để pha. Trà ngấm sẽ cho màu nước vàng như mật ong, tỏa mùi thơm, uống xong vị ngọt đọng mãi nơi đầu lưỡi...

Trước năm 2010, trà hoa vàng vẫn là cây mọc tự nhiên, bị khai thác tự phát. Những gốc cây quý bị đào tận rễ bán ra ngoài khiến nguồn giống bản địa dần cạn kiệt. Chính quyền huyện Ba Chẽ (nay là xã Ba Chẽ) cùng ngành nông nghiệp Quảng Ninh đã vào cuộc: khoanh vùng bảo tồn, nhân giống, quy hoạch diện tích, đưa cây trà hoa vàng từ rừng về vườn. Từ vài chục hecta ban đầu, đến nay, khắp xã Ba Chẽ đã phát triển hơn 300 ha, trong đó trên 100 ha cho thu hoạch ổn định, tập trung tại các xã Ba Chẽ, Kỳ Thượng. Mục tiêu đến năm 2030 là toàn tỉnh sẽ có 500 ha, đưa trà hoa vàng thành cây chủ lực của cả vùng.

Trà hoa vàng là thảo dược quý có dược tính cao, từ lá, búp non và hoa trà đều có công dụng, riêng lá trà có thế hái bất kỳ mùa nào trong năm mà không ảnh hưởng tới chất lượng. Chính vì vậy, từ loại mọc tự nhiên trong rừng, đến nay trà hoa vàng Ba Chẽ đã trở thành sản phẩm OCOP uy tín. Năm 2024, sản phẩm trà hoa vàng Ba Chẽ được công nhận OCOP 5 sao cấp quốc gia, khẳng định vị thế đặc sản của Quảng Ninh. Không chỉ là cây dược liệu, nó còn là câu chuyện về hành trình đánh thức tiềm năng của núi rừng, mở ra con đường đổi đời cho hàng nghìn hộ dân.

Giữa rừng sâu Ba Chẽ, mỗi mùa xuân đến là cả một thảm vàng trải dài như ánh nắng. Nhưng thứ “vàng” quý giá hơn chính là giá trị dược liệu mà trà hoa vàng mang trong mình. Các nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước chỉ ra, hoa trà chứa nhiều hoạt chất EGCG, vitamin C, E cùng các nguyên tố vi lượng hiếm như selen, kẽm. Chúng có khả năng hỗ trợ điều hòa đường huyết, giảm cholesterol xấu, tăng cường miễn dịch, kháng viêm và chống lão hóa.

Để giữ trọn tinh chất, các cơ sở sản xuất tại Ba Chẽ đã áp dụng công nghệ sấy thăng hoa hiện đại, đạt chuẩn HACCP, ISO 9001:2015. Mỗi bông trà sau chế biến vẫn giữ được màu vàng tươi, hương thơm thanh khiết, chỉ cần vài cánh hoa cũng đủ tạo nên chén trà ngọt hậu, ấm nồng.

Không chỉ là thức uống, trà hoa vàng đã trở thành “dược liệu quý” được các viện nghiên cứu đánh giá cao. Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam) phối hợp phòng thí nghiệm Hà Lan từng phân tích và chứng minh tác dụng chống oxy hóa, hỗ trợ phòng chống ung thư, bảo vệ gan, tim mạch của trà hoa vàng Ba Chẽ. Nhờ đó, sản phẩm nhanh chóng vươn ra thị trường trong nước, trở thành niềm tự hào của vùng đất cửa ngõ Đông Bắc.

Câu chuyện của trà hoa vàng Quảng Ninh còn là câu chuyện đổi đời của bà con đồng bào dân tộc thiểu số, từ nghèo khó đến thu nhập tiền tỷ. Theo đó, trước khi có trà hoa vàng, cuộc sống của đồng bào vùng cao Ba Chẽ chủ yếu dựa vào cây keo, cây quế. Đất dốc, năng suất thấp, đầu ra bấp bênh khiến thu nhập bình quân chỉ đạt 17,5 triệu đồng/người/năm (2015). Khi cây trà hoa vàng được trồng theo mô hình liên kết, con số ấy đã thay đổi chóng mặt: năm 2024, thu nhập bình quân tăng lên 60 triệu đồng/người/năm.

Mỗi cây trà trưởng thành cho 1-2 kg hoa tươi, tương đương khoảng 1 triệu đồng/cây/năm. Một hộ trồng vài trăm gốc có thể thu từ 300-400 triệu đồng mỗi năm. Đây là mức thu nhập mà trước đây người dân chưa từng nghĩ tới. Vụ thu hoạch trà hoa vàng bắt đầu từ tháng 12 kéo dài đến tháng 3 năm sau. Vào chính vụ, những rừng trà ngút ngàn sắc vàng bung nở báo hiệu một mùa bội thu của bà con nơi đây. Với giá bán cao và ổn định, Trà hoa vàng đã và đang mang lại hàng trăm triệu đồng mỗi năm cho người trồng, giúp họ không chỉ thoát nghèo mà còn làm giàu trên mảnh đất quê hương. Cây trà hoa vàng thực sự trở thành “cây đổi đời” của người dân Sán Chỉ, Dao Thanh Y, Tày, Kinh… trên vùng đất này.

Để cây trà không chỉ là phong trào, các địa phương có thế mạnh về cây chè đã xây dựng mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ. Các HTX như HTX Dược liệu và chè hoa vàng Ba Chẽ, doanh nghiệp như Công ty CP Kinh doanh lâm sản Đạp Thanh đóng vai trò “bà đỡ”, cung cấp giống, hỗ trợ kỹ thuật, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Người dân không còn nỗi lo “được mùa mất giá”, sản phẩm ổn định cả về chất và lượng.

Năm 2014, Công ty TNHH Thương mại dịch vụ và Xuất nhập khẩu Quy Hoa với mục tiêu tập trung phát triển cây trà hoa vàng và những sản phẩm chế biến từ trà hoa vàng. Chăm sóc cây trà hoa vàng theo hướng hữu cơ để thu được hoa to, lá mỡ màng, có chỉ số an toàn thực phẩm rất cao; thu hoạch bằng tay, khi bông hoa vừa chớm nở, không có hoặc có rất ít cuống hoa, đảm bảo cao nhất tinh chất trong hoa; sấy hoa bằng công nghệ đông lạnh tăng hoa, giữ được đến 99% tinh chất tự nhiên, 97% hình dáng, không khác bông hoa tươi nguyên trên cành lá. Sản phẩm sau khi được đóng gói có mã QR, có logo thương hiệu… Năm 2022, sản phẩm trà hoa vàng Quy Hoa được Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP cấp trung ương xếp hạng 5 sao. 

Ông Nịnh Văn Trắng, một trong những người dân tộc Sán Chỉ tiên phong nhân giống trà hoa vàng, chia sẻ: “Ngày trước, bà con lên rừng lấy củi, săn măng, quanh năm vẫn thiếu gạo. Nay, chỉ cần chăm sóc mấy trăm gốc trà, mùa hoa về là có tiền trả nợ, xây nhà, lo cho con học”. Doanh nghiệp của ông hiện cung cấp mỗi năm hàng vạn cây giống, chế biến 6-7 tấn hoa tươi, mang lại doanh thu hàng tỷ đồng và tạo việc làm cho hàng chục lao động địa phương.

Nhận thức được giá trị lâu dài, nhiều hộ dân đã chuyển sang trồng trà theo hướng hữu cơ: phân bón vi sinh, không thuốc hóa học, trồng xen dưới tán rừng. Cách làm này không chỉ bảo vệ môi trường sinh thái, giữ đất, giữ nước, mà còn giúp sản phẩm đạt tiêu chuẩn dược liệu sạch, nâng giá trị gấp đôi so với trà trồng thông thường.

Chính quyền địa phương cũng hỗ trợ mạnh mẽ để phát triển cây chè như trợ giá 70% cây giống, tập huấn kỹ thuật, hướng tới xây dựng vùng nguyên liệu hữu cơ đạt chuẩn quốc tế. Từng đồi trà xanh mướt dưới chân núi giờ không chỉ mang lại kinh tế mà còn là “lá phổi” giữ màu xanh cho rừng.

Từ một loài cây hoang dại, trà hoa vàng Ba Chẽ nay đã trở thành thương hiệu OCOP 5 sao quốc gia, góp mặt trong các hội chợ thương mại, lễ hội văn hóa trong nước. Lễ hội Trà hoa vàng được tổ chức định kỳ hai năm một lần không chỉ quảng bá sản phẩm mà còn biến Ba Chẽ thành điểm đến du lịch trải nghiệm, kết nối kinh tế văn hóa cộng đồng.

Đặc biệt, tại Quảng Ninh, trà hoa vàng không chỉ là cây dược liệu quý mà còn đang trở thành “linh hồn” cho các sản phẩm du lịch sinh thái - trải nghiệm. Theo đó, xã Ba Chẽ đã khéo léo kết hợp vùng trồng trà hoa vàng với các tour tham quan rừng, làng bản dân tộc, tạo nên chuỗi giá trị kép: vừa tiêu thụ nông sản, vừa quảng bá hình ảnh địa phương. Mỗi mùa xuân, lễ hội trà hoa vàng tổ chức định kỳ hai năm một lần thu hút hàng vạn du khách, biến những đồi trà vàng rực thành điểm check-in độc đáo.

Các HTX, doanh nghiệp địa phương đã bắt đầu khai thác mô hình “trải nghiệm một ngày làm người hái trà”, du khách được tham gia thu hoạch, sấy hoa và thưởng thức tách trà vàng sóng sánh giữa núi rừng. Cách làm này không chỉ gia tăng giá trị sản phẩm mà còn mở ra kênh tiêu thụ trực tiếp tại chỗ, gắn thương hiệu trà hoa vàng với câu chuyện văn hóa - sinh thái đặc trưng của vùng cao Quảng Ninh.

Theo kế hoạch đến năm 2030, Quảng Ninh sẽ phát triển vùng trà hoa vàng thành “điểm nhấn du lịch xanh”, kết nối với các tuyến di sản Hạ Long. Khi trà hoa vàng được gắn với du lịch trải nghiệm và văn hóa bản địa, nó không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp mà còn trở thành cầu nối đưa du khách đến gần hơn với thiên nhiên và cộng đồng dân tộc thiểu số, mở ra hướng phát triển bền vững cho “vàng xanh” miền Đông Bắc.

Tầm nhìn đến năm 2030, Quảng Ninh đặt mục tiêu mở rộng vùng nguyên liệu lên 500 ha, xây dựng trung tâm chế biến hiện đại, đăng ký chỉ dẫn địa lý quốc tế và mở đường xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu. Nếu thành công, trà hoa vàng không chỉ là “cây đổi đời” của đồng bào dân tộc thiểu số, mà còn là biểu tượng nông nghiệp sạch của Việt Nam.

Từ rừng sâu Ba Chẽ, “nữ hoàng trà” không chỉ mang sắc vàng của hoa mà còn mang màu vàng của cơ hội. Đó là cơ hội để giữ rừng, giữ đất, giữ làng; cơ hội để những gia đình Dao, Sán Chỉ thoát nghèo; cơ hội để Quảng Ninh khẳng định vị thế nông sản đặc sản trên bản đồ quốc gia. Trà hoa vàng hôm nay không chỉ là cây dược liệu, mà là “vàng xanh” của một vùng đất và là giấc mơ về một tương lai bền vững, nơi màu vàng hoa rừng hòa cùng sắc vàng của ấm no, thịnh vượng.

 

Bài: Bảo Ngọc; Đồ hoạ; Ngọc Lan