Quy mô nhỏ lẻ - “điểm nghẽn” lớn của sản phẩm OCOP
Theo thống kê của Bộ Công Thương, sau 7 năm triển khai, Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) đã tạo ra hơn 17.000 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 126 sản phẩm đạt chuẩn 5 sao cấp quốc gia. Đây là con số ấn tượng, thể hiện nỗ lực của các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp trong việc khai thác tiềm năng đặc sản vùng miền, nâng cao giá trị nông sản, thủ công mỹ nghệ và sản phẩm truyền thống.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy đa phần sản phẩm OCOP hiện vẫn sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán, thiếu liên kết chuỗi và khó đảm bảo nguồn cung ổn định khi có đơn hàng lớn. Các cơ sở sản xuất thường dựa vào lao động thủ công, thiết bị lạc hậu, năng suất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe của các nhà phân phối và đối tác quốc tế.
Bên cạnh đó, các chủ thể OCOP cũng đang gặp khó khăn về vốn, thiếu kỹ năng quản trị, marketing và bán hàng hiện đại. Không ít cơ sở vẫn loay hoay trong khâu bao bì, nhãn mác, hoặc chưa đầu tư cho hệ thống nhận diện thương hiệu chuyên nghiệp… Tất cả những hạn chế này đang trở thành “nút thắt” khiến sản phẩm OCOP dù chất lượng tốt nhưng vẫn khó vươn xa, đặc biệt là khi bước ra sân chơi quốc tế.
Ông Phạm Như Phương - Trưởng phòng Phòng Xuất nhập khẩu ngành hàng - Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, trong bối cảnh đó, việc Việt Nam ký kết và tham gia hàng loạt Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như EVFTA, CPTPP, RCEP… đang mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa Việt Nam nói chung, trong đó có các sản phẩm OCOP xuất khẩu thành công với mức thuế thấp. Những thị trường như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Úc đều dành ưu đãi thuế quan đáng kể cho hàng hóa xuất xứ Việt Nam, nếu đáp ứng đầy đủ các quy định về xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật và chứng nhận bền vững. Tuy nhiên, đi cùng cơ hội là thách thức không nhỏ.
Với các yêu cầu ngày càng cao, sản xuất xanh, thân thiện môi trường và phát triển bền vững đang trở thành xu hướng tất yếu nếu Việt Nam muốn nâng tầm giá trị sản phẩm OCOP và chinh phục người tiêu dùng quốc tế. Việc áp dụng công nghệ số trong quản lý chuỗi cung ứng, mã hóa truy xuất nguồn gốc, hay sử dụng nguyên liệu tái tạo, bao bì sinh học… không chỉ giúp đáp ứng tiêu chuẩn mà còn nâng cao hình ảnh thương hiệu quốc gia.
Hoàn thiện chính sách và tăng cường năng lực chủ thể OCOP
Để hỗ trợ doanh nghiệp và các chủ thể OCOP vươn ra thế giới, các bộ, ngành cần triển khai hiệu quả hơn những chính sách đã ban hành, đặc biệt là các định hướng chiến lược của Đảng và Chính phủ về đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và hoàn thiện thể chế pháp luật.
Một hướng đi quan trọng là xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm OCOP gắn với vùng nguyên liệu bền vững, quy trình sản xuất đạt chuẩn, hệ thống kiểm nghiệm chất lượng, bao bì và nhãn mác đồng bộ. Khi đã có nền tảng tiêu chuẩn hoá, các sản phẩm OCOP mới đủ điều kiện tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc tăng cường xúc tiến thương mại và kết nối cung cầu cũng là yếu tố then chốt.
Về phía các doanh nghiệp, để tận dụng tối đa các FTA đã được ký kết, các doanh nghiệp đang nỗ lực nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, mở rộng hệ thống phân phối để tìm kiếm cơ hội cho sản phẩm tại thị trường nước ngoài. Bà Lưu Thị Yến – đại điện Công ty CP VTK Việt Nam đơn vị có sản phẩm mắm chưng thịt, thịt xào mắm ruốc đạt tiêu chuẩn OCOP 4 sao của tỉnh Bắc Ninh cho biết, việc tham gia các hội nghị quốc tế tại Lào, Campuchia, Trung Quốc là cơ hội đưa sản phẩm ra nước ngoài.
Từ những thành tựu bước đầu, có thể khẳng định sản phẩm OCOP Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn để khẳng định vị thế trên bản đồ hàng hóa thế giới. Song để đạt được mục tiêu đó, cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống, từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp, hợp tác xã đến chính quyền địa phương.
Chỉ khi quy mô sản xuất được nâng tầm, chất lượng sản phẩm được chuẩn hóa, thương hiệu được định vị rõ ràng và câu chuyện văn hóa bản địa được kể bằng ngôn ngữ toàn cầu, sản phẩm OCOP Việt Nam mới thật sự có thể “vươn cánh” ra thế giới, trở thành niềm tự hào không chỉ của từng địa phương mà của cả quốc gia.