Mới đây, Tạp chí Năng lượng Mới/PetroTimes đã tổ chức Tọa đàm “Petrovietnam trong hành trình phát triển cùng đất nước”. Tọa đàm được tổ chức nhằm nhìn lại đóng góp rực rỡ của Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) trong tiến trình hình thành và phát triển cùng với lịch sử dân tộc.
Động lực phát triển mới của Petrovietnam
Một trong những chủ đề được các chuyên gia, nhà quản lý quan tâm đó là những động lực phát triển mới mà hệ sinh thái công nghiệp - năng lượng của Petrovietnam có thể mang lại cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những năm tới. Phát biểu tại tọa đàm, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng: Động lực phát triển mới của Petrovietnam đến từ chính chiều sâu liên kết trong hệ sinh thái công nghiệp - năng lượng mà Tập đoàn đã xây dựng.
“Chúng ta thấy rất rõ chuỗi khí - điện - đạm là một trục liên hoàn mang lại giá trị lớn và ổn định: khí từ các mỏ ngoài khơi được đưa vào bờ để sản xuất điện; điện và khí lại là đầu vào quan trọng cho sản xuất phân bón. Ba lĩnh vực này tạo thành một chuỗi giá trị bền vững, ít rủi ro hơn nhiều so với việc phụ thuộc vào xuất khẩu dầu thô. Chuỗi lọc - hóa dầu cũng tạo ra động lực lan tỏa mạnh sang nhiều ngành công nghiệp khác”- PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, việc Petrovietnam bắt kịp xu hướng chuyển dịch năng lượng, như khí hóa lỏng, hydrogen, điện gió ngoài khơi,… sẽ là cơ sở tạo ra các chuỗi giá trị mới trong hệ sinh thái Petrovietnam. Điểm thuận lợi là đất nước đang thống nhất ý chí trong triển khai Quy hoạch điện VIII; Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết chiến lược, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây vừa là yêu cầu của quốc gia, vừa là động lực để Petrovietnam bứt phá trong vai trò mới.
Các vị khách mời tham gia Tọa đàm “Petrovietnam trong hành trình phát triển cùng đất nước”.
Trong khi đó, để hệ sinh thái năng lượng phát huy tối đa hiệu quả và phát triển mạnh hơn, đại biểu Quốc hội Phạm Thúy Chinh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cho rằng có ba yêu cầu rất quan trọng. Đó là hoàn thiện thể chế, tăng cường phối hợp liên ngành trong triển khai, có cơ chế tài chính đủ mạnh cùng các chính sách đặc thù để Petrovietnam có cơ sở pháp lý thực hiện các nhiệm vụ và sứ mệnh của mình.
“Nếu thể chế không theo kịp, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội phát triển và làm chậm quá trình chuyển dịch năng lượng. Vì vậy, sự phối hợp liên ngành, rõ ràng về trách nhiệm, ổn định của chính sách và cách tiếp cận linh hoạt của cơ quan quản lý chính là chìa khóa để hệ sinh thái Petrovietnam phát huy hết tiềm năng trong giai đoạn tới” - bà Phạm Thúy Chinh chia sẻ.
Cần có cơ chế đặc biệt để Petrovietnam hoàn thành sứ mệnh quốc gia
Trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng toàn cầu đang diễn ra rất mạnh mẽ, theo TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho rằng ưu tiên chiến lược lớn nhất của Petrovietnam trong giai đoạn chuyển dịch năng lượng hiện nay chính là việc thực hiện mục tiêu kép. Đó là, vừa tiếp tục phát huy hiệu quả lĩnh vực hoạt động truyền thống, vừa chủ động, vừa linh hoạt, vừa nhạy bén để quyết liệt mở rộng sang các lĩnh vực năng lượng mới một cách thông thái nhất.
Trước hết, về hoạt động dầu khí truyền thống, đây vẫn sẽ là trụ cột quan trọng của Tập đoàn trong nhiều năm tới. Chúng ta cần khai thác dầu khí một cách tối ưu, an toàn và hiệu quả nhất, không chỉ để đảm bảo an ninh năng lượng mà còn tạo nguồn lực tài chính cho các bước chuyển đổi tiếp theo. Việc gia tăng trữ lượng, mở rộng tìm kiếm - thăm dò, nâng cao hệ số thu hồi và làm chủ công nghệ tiếp tục là nhiệm vụ cốt lõi.
Thứ hai, đối với chuyển dịch năng lượng, Petrovietnam phải vào cuộc một cách chủ động và có tính toán. Các lĩnh vực như LNG, điện khí, hydrogen, điện gió ngoài khơi, công nghệ thu giữ - lưu trữ carbon (CCUS) đều là xu hướng toàn cầu và cũng là những lĩnh vực Việt Nam có tiềm năng lớn. Tuy nhiên, không phải lĩnh vực nào cũng cần làm ngay và làm bằng mọi giá. Điều quan trọng nhất là: Chọn đúng thời điểm; đúng lĩnh vực phù hợp với lợi thế của Petrovietnam; đúng đối tác và nhà đầu tư có tiềm lực công nghệ - tài chính và kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng mới và chọn đúng quy mô và mức độ đầu tư để tránh dàn trải.
Dự án Nhơn Trạch 3 và 4 cùng Nhà máy Điện Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2 tạo thành trung tâm năng lượng sạch tại Đồng Nai và cả khu vực Đông Nam Bộ.
Thứ ba, trong quá trình mở rộng, Tập đoàn cần phát huy những năng lực cốt lõi - đó là tri thức, kinh nghiệm và hệ thống khoa học - công nghệ tích lũy suốt 50 năm qua, cũng như chủ động nắm bắt những tiến bộ khoa học, công nghệ đang đổi mới từng ngày. Năng lượng mới là cơ hội, nhưng cũng đi kèm rủi ro lớn nếu chúng ta rời bỏ quá nhanh những năng lực đã được chứng minh hiệu quả.
Cuối cùng, điều quan trọng nhất là chuyển dịch năng lượng phải đi đôi với đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Petrovietnam không chỉ làm kinh tế mà còn là doanh nghiệp mang sứ mệnh quốc gia. Vì vậy, chiến lược chuyển dịch năng lượng phải vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chủ quyền và trách nhiệm với sự phát triển dài hạn của đất nước.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Văn Phụng cho rằng, hiện rất nhiều lĩnh vực Petrovietnam đang bước vào - đặc biệt là LNG, điện khí, hydrogen, công nghệ thu giữ, lưu trữ carbon - đều có chuỗi giá trị hoàn toàn khác với cách làm của ngành dầu khí truyền thống. Nhưng pháp luật hiện hành lại đang được xây dựng dựa trên các mô hình cũ. Ví dụ điển hình nhất là LNG: từ nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa khí, vận chuyển, phân phối đến phát điện - tất cả đều là những mắt xích mới, nhưng hiện chưa có hệ thống định nghĩa thống nhất: đâu là hàng hóa, đâu là dịch vụ, đâu là hạ tầng năng lượng.
Vướng mắc thứ hai là cơ chế ưu đãi cho đầu tư xanh, công nghệ sạch chưa thật sự rõ ràng và đủ mạnh. Nhiều quốc gia đã sử dụng ưu đãi thuế, tín dụng xanh hoặc các cơ chế chia sẻ rủi ro để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực mới. “Như vậy, để Petrovietnam thực sự tăng tốc trong chuyển dịch năng lượng, chúng ta cần hoàn thiện nhanh và đồng bộ khung pháp lý cho các mô hình mới, đồng thời ban hành các chính sách ưu đãi đủ mạnh để thu hút đầu tư và chia sẻ rủi ro cùng doanh nghiệp” - ông Nguyễn Văn Phụng khẳng định.
Đồng thời, bà Phạm Thúy Chinh cũng cho rằng, 30 năm tới không chỉ là giai đoạn bản lề của ngành công nghiệp - năng lượng mà còn của cả nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, để hệ sinh thái công nghiệp - năng lượng của Petrovietnam phát huy tối đa giá trị, yêu cầu lớn nhất nằm ở hành lang pháp lý vững chắc và sự đồng bộ của thể chế. Đây là yếu tố quyết định việc các chuỗi liên kết vận hành trơn tru hay bị đứt gãy tại những điểm then chốt.
Thứ nhất, chúng ta cần một khung pháp lý thống nhất và liền mạch cho toàn chuỗi. Một khung pháp lý đồng bộ giúp rút ngắn thời gian phê duyệt, minh bạch hóa trách nhiệm và tạo niềm tin cho nhà đầu tư.
Thứ hai, chính sách thuế và tài chính phải phù hợp với đặc thù đầu tư dài hạn của ngành công nghiệp - năng lượng. Các dự án của Petrovietnam thường có quy mô hàng tỷ USD và thời gian thu hồi vốn kéo dài. Nếu cơ chế thuế, phí không ổn định hoặc thay đổi quá nhanh, doanh nghiệp rất khó xây dựng kế hoạch tài chính dài hạn. Do đó, cần những chính sách đủ rõ và đủ bền vững để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào LNG, hydrogen hay lọc hóa dầu sâu - những lĩnh vực mang tính chiến lược quốc gia.
Kho LNG Thị Vải của PV GAS/Petrovietnam.
“Từ góc nhìn của cử tri nhân dân và đại biểu Quốc hội, Petrovietnam chính là hình mẫu để chứng minh rằng doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn có thể hoạt động hiệu quả, minh bạch, sức cạnh tranh cao nếu có cơ chế phù hợp. Đây là thông điệp rất quan trọng đối với các nhà hoạch địch chính sách trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước hiện nay” - bà Phạm Thúy Chinh khẳng định.
Kỳ vọng rằng Petrovietnam sẽ ngày càng khẳng định vai trò sứ mệnh, làm tốt hơn trách nhiệm trong nắm giữ nguồn lực quốc gia, xứng đáng là doanh nghiệp trọng điểm của nền kinh tế. Cùng với việc hoàn thiện thể chế, Petrovietnam cần tự đổi mới mình, đổi mới quản trị doanh nghiệp, chuyển dịch tư duy về quản trị doanh nghiệp.