Từ manh mún đến liên kết, bước chuyển căn bản trong sản xuất nông nghiệp
Ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Gia Lai, trước đây, hoạt động sản xuất của người dân chủ yếu mang tính tự phát, nhỏ lẻ, “mạnh ai nấy làm”. Nhiều hộ gia đình thiếu kiến thức kỹ thuật, không có sự hợp tác, nên sản phẩm làm ra manh mún, giá trị thấp, khó tiêu thụ ổn định.
Nhưng vài năm trở lại đây, khi các tổ liên kết sản xuất được hình thành với sự hỗ trợ của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, diện mạo sản xuất ở các buôn làng đã thay đổi rõ rệt. Hội viên, đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số, bắt đầu tham gia vào các nhóm sản xuất cà phê, bắp ngọt, rau sạch, dệt thổ cẩm… - mô hình vừa phát huy tinh thần tương trợ, vừa tạo ra lợi thế quy mô để gắn kết thị trường.
Mô hình tổ liên kết giúp đồng bào dân tộc thiểu số Gia Lai lưu giữ, phát triển nghề truyền thống (Ảnh: Ngọc Thu)
Tại làng Roh, xã Lơ Pang, tổ liên kết sản xuất - tiêu thụ cà phê do Hội Phụ nữ xã vận động thành lập năm 2021 hiện có hơn 150 thành viên, đa số là chị em người Bahnar. Các hội viên được hướng dẫn kỹ thuật canh tác, thu hái, sơ chế, đồng thời được hỗ trợ phân bón trả chậm và đảm bảo đầu ra theo giá thị trường. Nhờ vậy, giá cà phê tăng bình quân 15–20% so với trước, thu nhập ổn định quanh năm.
Không chỉ dừng lại ở cây cà phê, phong trào liên kết sản xuất còn lan sang các lĩnh vực khác. Tại xã Ia Phí, tổ phụ nữ trồng bắp ngọt quy mô 12 ha giúp hàng chục hộ có việc làm quanh năm, với thu nhập bình quân 6–-7 triệu đồng/tháng. Ở xã Đăk Đoa, phụ nữ làng Tơr Bang lại chọn con đường giữ nghề truyền thống: thành lập tổ dệt thổ cẩm gồm 30 chị em Bana, vừa bảo tồn văn hóa, vừa có nguồn thu ổn định từ các đơn hàng du lịch và thương mại điện tử.
Những mô hình này đã chứng minh hiệu quả “liên kết để phát triển”: cùng học, cùng làm, cùng bán - một hình thức “cộng sinh kinh tế” phù hợp với điều kiện vùng dân tộc thiểu số, giúp người dân vượt qua tập quán sản xuất tự cung tự cấp, vươn tới tư duy thị trường hiện đại.
Phát triển bền vững mô hình tổ hợp tác
Dù hiệu quả bước đầu rất tích cực, song việc phát triển tổ liên kết ở Gia Lai vẫn còn không ít thách thức. Trước hết là thiếu vốn đầu tư ban đầu. Phần lớn hội viên phụ nữ dân tộc thiểu số chưa đủ điều kiện vay vốn ngân hàng, lại thiếu kiến thức lập kế hoạch kinh doanh nên việc mở rộng quy mô sản xuất gặp khó.
Thúc đẩy là kết nối sản phẩm địa phương với du lịch cộng đồng (Ảnh: Thuỳ Dung)
Bên cạnh đó, kỹ năng quản lý, xây dựng thương hiệu, bao bì sản phẩm và truy xuất nguồn gốc còn yếu. Nhiều sản phẩm tuy chất lượng tốt nhưng chưa có nhãn mác, chưa được đăng ký OCOP, dẫn đến sức cạnh tranh thấp. Khâu tiêu thụ vẫn là “nút thắt” lớn nhất, khi các sản phẩm chủ yếu bán trong phạm vi địa phương, ít được tiếp cận các chuỗi siêu thị hoặc kênh thương mại điện tử.
Để tháo gỡ những khó khăn này, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Gia Lai đã chủ động phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường, Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức tập huấn nâng cao năng lực quản trị, chuyển đổi số cho cán bộ và hội viên. Nhiều lớp hướng dẫn sử dụng mạng xã hội, livestream giới thiệu sản phẩm, kỹ năng chụp ảnh và viết nội dung quảng bá đã giúp chị em tự tin hơn khi tiếp cận thị trường hiện đại.
Ngoài ra, các chương trình hỗ trợ tín dụng vi mô và vốn ưu đãi dành cho phụ nữ vùng dân tộc cũng đang phát huy hiệu quả. Từ nguồn vốn Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, hàng trăm hội viên đã được vay từ 30-50 triệu đồng để đầu tư chăn nuôi, trồng trọt, mua sắm máy móc sơ chế nông sản.
Một hướng đi mới cũng đang được thúc đẩy là kết nối sản phẩm địa phương với du lịch cộng đồng. Tại xã Kbang và Mang Yang, tổ dệt thổ cẩm của phụ nữ Bana đã kết hợp với các điểm du lịch để trình diễn, bán sản phẩm tại chỗ. Nhiều nhóm còn đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tửnhư “Gian hàng Việt trực tuyến”, Sendo Farm, nongsanviet.gialai.vn, góp phần mở rộng đầu ra và nâng cao giá trị hàng hóa.
Mô hình tổ liên kết sản xuất không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn lan tỏa tinh thần đoàn kết, đổi mới tư duy làm ăn của phụ nữ dân tộc thiểu số. Từ chỗ e dè, thụ động, họ trở nên tự tin, chủ động tiếp cận tri thức mới, mạnh dạn đầu tư, hợp tác cùng nhau làm giàu.
Điều đáng quý là, sự thay đổi ấy không tách rời cội nguồn văn hóa. Nhiều mô hình vừa phát triển sản xuất, vừa gìn giữ nghề truyền thống, bảo tồn nét đẹp làng quê, đóng góp vào mục tiêu phát triển nông thôn mới và bình đẳng giới.
Con đường phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số Gia Lai vẫn còn dài và đầy thách thức. Nhưng với sự đồng hành của Hội Phụ nữ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp, cùng tinh thần dám nghĩ, dám làm của chị em - những người đang từng ngày “bắt nhịp” tổ liên kết để đổi vận, tương lai của nông thôn Gia Lai hứa hẹn ngày càng khởi sắc, bền vững và đầy bản sắc.