Rào cản nhân lực
Chính thức có hiệu lực từ tháng 1/2022, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) trở thành hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn nhất thế giới với sự tham gia của 15 quốc gia, trong đó có 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand. Một điểm đáng chú ý của RCEP là cam kết xóa bỏ khoảng 90% thuế nhập khẩu trong vòng 20 năm, qua đó thúc đẩy thương mại, đầu tư và tăng cường gắn kết kinh tế trong khu vực.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), đến năm 2030, RCEP có thể giúp thu nhập của các nền kinh tế thành viên tăng thêm 0,6%, tương đương 245 tỷ USD mỗi năm, đồng thời tạo ra 2,8 triệu việc làm mới. Những con số này cho thấy RCEP mang lại lợi ích rõ rệt, mở ra cơ hội phát triển kinh tế, việc làm và thu nhập cho người lao động, trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, các chuyên gia kinh tế dự báo trong khoảng 5 năm tới, ngành bán dẫn cần khoảng 20.000 người - Ảnh: Thanh Giang
Thực tế, việc tham gia RCEP đang tạo ra nhu cầu lớn về nguồn nhân lực trong nhiều lĩnh vực then chốt, đặc biệt là xuất nhập khẩu, logistics, ngành bán dẫn, công nghệ thông tin, công nghệ cao... Cùng đó, với loạt FTA song phương và đa phương được triển khai, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ, kéo theo yêu cầu ngày càng cao về chất lượng lao động. Các doanh nghiệp đòi hỏi lực lượng nhân sự có chuyên môn sâu về quản lý chuỗi cung ứng, hậu cần và thương mại quốc tế, đồng thời cần kỹ năng mềm như giao tiếp, ngoại ngữ và khả năng thích ứng với văn hóa doanh nghiệp toàn cầu. Đây chính là nền tảng để Việt Nam tận dụng cơ hội từ FTA, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Mang lại cơ hội lớn cho nền kinh tế nhưng RCEP cũng đặt ra thách thức không nhỏ đối với thị trường lao động Việt Nam. Theo TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính), năng suất lao động năm 2024 của nước ta tăng 5,88%, mức cao nhất trong nhiều năm và vượt mục tiêu đề ra. Tuy vậy, năng suất bình quân của Việt Nam mới đạt khoảng 7.200 USD/lao động, chỉ bằng 62% Thái Lan, 41% Malaysia và chưa tới 1/10 so với Singapore.
Đáng chú ý, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam đang có xu hướng chậm lại, từ mức 6,2% giai đoạn 2011-2015 giảm xuống 5,8% giai đoạn 2016-2020 và chỉ còn khoảng 4,8% trong giai đoạn 2021-2024. Khoảng cách năng suất lao động giữa Việt Nam với nhiều quốc gia phát triển trong khu vực vẫn còn khá lớn, thể hiện rõ ở năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, trình độ ngoại ngữ và hiệu quả lao động tổng thể.
"Dù chất lượng nguồn nhân lực trong nước đã được nâng lên đáng kể trong những năm qua song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hội nhập sâu rộng. Khi RCEP dỡ bỏ rào cản thương mại, sự cạnh tranh diễn ra không dừng lại ở hàng hóa hay dịch vụ mà mở rộng sang cả thị trường lao động", ông Lâm nói và cho rằng việc nâng cao kỹ năng nghề, đẩy mạnh đào tạo ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ sẽ là những giải pháp trọng tâm giúp lao động Việt Nam tận dụng cơ hội, đồng thời đủ sức cạnh tranh với lực lượng nhân lực chất lượng cao của các quốc gia khác.
Giải bài toán nhân lực chất lượng cao
Với tốc độ tăng trưởng ấn tượng từ 10-15% hàng năm, ngành logistics hiện nay được đánh giá là một trong những lĩnh vực có sự phát triển mạnh mẽ và đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với một thách thức lớn: thiếu hụt nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực logistics. Hiện tại, nguồn cung lao động cho dịch vụ logistics chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu thực tế của thị trường, điều này đặt ra một vấn đề cấp bách về việc nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của ngành.
Chia sẻ tại tọa đàm "Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics hướng tới phát triển bền vững và hội nhập" do Báo Công Thương tổ chức, TS. Vũ Minh Tiến, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại TP. Hồ Chí Minh cho biết, nhà trường với thế mạnh hơn 10 năm đào tạo và cung ứng nhân lực logistics đang tiếp tục đổi mới chương trình giảng dạy. Theo đó, các môn học được tích hợp phần mềm quản lý chuỗi cung ứng hiện đại, đồng thời bổ sung kiến thức và kỹ năng gắn với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn.
Song song với đào tạo lý thuyết, trường còn tăng cường kết nối với doanh nghiệp, đưa sinh viên trực tiếp đến kho hàng, cảng biển, đơn vị vận tải để trải nghiệm thực tế. Cách tiếp cận này giúp người học rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và thị trường lao động, nhanh chóng thích ứng với yêu cầu mới, từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực logistics đang phát triển mạnh mẽ.
Trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại TP. Hồ Chí Minh tích hợp chứng chỉ quốc tế vào chương trình đào tạo - Ảnh: COFER
Với các ngành công nghệ cao, PGS.TS Phùng Trung Nghĩa, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên) cho biết, năm 2024 nhà trường đã triển khai, điều chỉnh và tuyển sinh 24 chương trình đào tạo với khoảng 3.000 chỉ tiêu. Các ngành học đều tập trung vào lĩnh vực công nghệ số, có tính ứng dụng cao, phù hợp với định hướng chuyển đổi số quốc gia và xu thế cách mạng công nghiệp 4.0. Đáng chú ý, lần đầu tiên trường đưa vào kế hoạch đào tạo ngành vi mạch bán dẫn nhằm mục tiêu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp công nghệ cao, góp phần đáp ứng nhu cầu đang tăng mạnh của thị trường.
Bên cạnh việc chú trọng giáo dục, đào tạo chuyên sâu các ngành công nghệ cao, PGS.TS Phùng Trung Nghĩa nhấn mạnh sự cần thiết của việc liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực bán dẫn và công nghệ để hình thành hệ sinh thái nhân lực vững mạnh. Điều này giúp sinh viên được tiếp cận thực tiễn, bảo đảm nguồn cung nhân lực đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu.
Đồng thời, việc xây dựng chương trình chuẩn về năng lực quốc gia cho lĩnh vực công nghệ cao là yêu cầu cấp thiết, giúp các cơ sở đào tạo xác định rõ tiêu chí, kỹ năng và chuẩn chuyên môn mà người học cần đạt, từ đó tạo sự đồng bộ, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhân lực Việt Nam.
RCEP gồm 10 quốc gia thành viên ASEAN cùng 5 quốc gia khác là Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand. Hiệp định này được ký kết vào tháng 11/2020 sau 8 năm đàm phán. Đây là thỏa thuận thương mại tự do lớn nhất thế giới, tạo ra thị trường chiếm gần 30% dân số thế giới (khoảng 2,2 tỷ người) và chiếm gần 30% GDP toàn cầu.