Hồng Kông (Trung Quốc) chiếm 60% lượng thịt xuất khẩu của Việt Nam
Cục Xuất nhập khẩu dẫn số liệu của Cục Hải quan cho hay, 11 tháng năm 2025, Việt Nam xuất khẩu 20,1 nghìn tấn thịt và các sản phẩm thịt, trị giá 104,87 triệu USD, giảm 3,9% về lượng, nhưng tăng 7,5% về trị giá so với 11 tháng năm 2024. Trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam tới tổng số 35 thị trường, tăng thêm 2 thị trường so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, Hồng Kông (Trung Quốc) vẫn là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam, chiếm 44,35% về lượng và chiếm 60,03% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, lượng đạt 8,9 nghìn tấn, trị giá 62,95 triệu USD, giảm 11,8% về lượng, nhưng tăng 5,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Sản phẩm thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (Trung Quốc) chủ yếu vẫn là thịt lợn sữa nguyên con đông lạnh và thịt lợn nguyên con đông lạnh.
Trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt sang một số thị trường tăng trưởng về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2024 như: Trung Quốc, Canada, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Liban...
Trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam chủ yếu vẫn gồm các chủng loại như: Thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 37,3% về lượng và chiếm 56,36% về trị giá; thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 32,22% về lượng và chiếm 22,27% về trị giá; thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05 tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 29,62% về lượng và chiếm 19,65% về trị giá; các chủng loại khác chiếm 0,87% về lượng và chiếm 1,72% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt của Việt Nam trong 11 tháng năm 2025.
Hồng Kông (Trung Quốc) là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam, chiếm 44,35% về lượng và chiếm 60,03% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước. Ảnh: MeatDeli
Trong đó, thịt lợn tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh vẫn là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất, với lượng đạt 7,4 nghìn tấn, trị giá 59,11 triệu USD, giảm 12,1% về lượng, nhưng tăng 12,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Xuất khẩu tới thị trường chủ yếu là Hồng Kông (Trung Quốc) giảm 8,5% về lượng, nhưng tăng 14,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Nhập khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt tăng gần 14%
Ở chiều ngược lại, theo số liệu của Cục Hải quan, trong 11 tháng năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 890,7 nghìn tấn thịt và các sản phẩm từ thịt, trị giá 1,8 tỷ USD, tăng 13,9% về lượng và tăng 13,8% về trị giá so với 11 tháng năm 2024. Ấn Độ vẫn là thị trường cung cấp thịt và các sản phẩm từ thịt lớn nhất cho Việt Nam trong 11 tháng năm 2025, chiếm 18,88% trong tổng lượng thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu của cả nước, với lượng đạt 168,1 nghìn tấn, trị giá 601,76 triệu USD, giảm 4% về lượng, nhưng tăng 3,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Tiếp theo Nga, Brazil, Hoa Kỳ, Australia cũng là những thị trường cung cấp lớn, trong đó nhập khẩu từ Nga và Brazil tăng mạnh cả về lượng và trị giá. Cụ thể, nhập khẩu từ Nga tăng 70,1% về lượng và tăng 72,3% về trị giá; nhập khẩu từ Brazil tăng 51,3% về lượng và tăng 70,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Trong khi đó, nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ, Australia chưa tăng trưởng mạnh.
Tiếp đến là những thị trường cung cấp đạt trị giá dưới 95 triệu USD, trong đó nhập khẩu tăng trưởng mạnh cả về lượng và trị giá so với cùng kỳ năm 2024 từ các thị trường: Ba Lan, Tây Ban Nha, Hồng Kông (Trung Quốc), Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, New Zealand, Slovenia, Algeria, Trung Quốc, Paraguay.... Còn nhập khẩu từ các thị trường khác mức tăng trưởng chưa đồng đều.
Trong 11 tháng năm 2025, các chủng loại thịt Việt Nam chủ yếu nhập khẩu gồm: Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ, của gia cầm thuộc nhóm 01.05, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 36,71% về lượng và chiếm 18,06% về trị giá; thịt trâu tươi đông lạnh chiếm 17,28% về lượng và chiếm 31,1% về trị giá; thịt lợn tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 19,27% về lượng và chiếm 21,58% về trị giá; phụ phẩm ăn được sau giết mổ của lợn, trâu, bò sống ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 18,7% về lượng và chiếm 12,78% về trị giá; thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh chiếm 3,94% về lượng và chiếm 13,71% về trị giá; các mặt hàng khác chiếm 4,1% về lượng và chiếm 2,77% về trị giá trong tổng nhập khẩu chủng loại thịt 11 tháng năm 2025.
Trong tháng 12/2025, giá heo hơi trên cả nước dao động từ 55.000 - 71.000 đồng/kg. Cụ thể, khu vực miền Bắc phổ biến 56.000 - 71.000 đồng/kg, miền Trung và Tây Nguyên từ 55.000 - 70.000 đồng/kg; miền Nam từ 55.000 - 65.000 đồng/kg, đều tăng so với mặt bằng giá của tháng 11/2025.
Giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 56.000 - 71.000 đồng/ kg, những ngày đầu tháng 12/2025 giá tăng từ 2.000 - 10.000 đồng/kg, sau đó tăng 12.000 - 18.000 đồng/kg và tiếp tục tăng từ 16.000 - 17.000 đồng/kg so với những ngày cuối tháng 11/2025. Giá lợn hơi tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên dao động trong khoảng 55.000 - 70.000 đồng/kg, trong những ngày đầu tháng 12/2025, giá lợn hơi tăng từ 2.000 - 12.000 đồng/kg, đến giữa tháng tăng 11.000 - 19.000 đồng/kg, sau đó tiếp tục tăng từ 17.000 - 19.000 đồng/kg.
Giá lợn hơi tại khu vực miền Nam dao động trong khoảng 55.000 - 65.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng 12/2025 giá lợn hơi tăng từ 2.000 - 10.000 đồng/kg, đến giữa tháng tăng 9.000 - 13.000 đồng/kg, sau đó tăng từ 11.000 - 12.000 đồng/kg.