Ông Huỳnh Nam - Giám đốc Công ty CP Truyền thông và Giải trí Jin Pro Network đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.
Ông Huỳnh Nam - Giám đốc Công ty CP Truyền thông và Giải trí Jin Pro Network
Thương hiệu không phải là cái tên, mà là câu chuyện có thể chuyển đổi
- Livestream bán nông sản vùng dân tộc thiểu số đang được nhiều nền tảng thực hiện. Từ thực tế doanh nghiệp mình, ông cho rằng, yếu tố “thương hiệu” của sản phẩm có tác động thế nào đến khả năng bán hàng?
Ông Huỳnh Nam: Thương hiệu, theo cách hiểu đúng trong bối cảnh nền tảng số hiện nay, không chỉ là một cái tên hay bao bì đẹp. Trước hết, nó phải bắt nguồn từ chất lượng sản phẩm, đó là điều kiện tiên quyết. Sản phẩm không tốt thì mọi nỗ lực xây dựng thương hiệu đều là vô nghĩa.
Tuy nhiên, nếu chỉ có chất lượng mà thiếu câu chuyện thì thương hiệu cũng khó bám rễ trong tâm trí người tiêu dùng. Câu chuyện chính là linh hồn của thương hiệu. Trên các nền tảng số, nơi người tiêu dùng không thể sờ, ngửi, nếm sản phẩm thì câu chuyện là thứ duy nhất khiến họ cảm được giá trị vô hình đằng sau sản phẩm đó.
Chúng tôi từng thấy nhiều sản phẩm nông sản vùng cao được giới thiệu là “rất ngon”, nhưng khi hỏi về câu chuyện văn hóa, nguồn gốc, ai là người làm ra, vì sao lại có tên gọi ấy… thì không ai trả lời được. Không có câu chuyện thì sẽ không tạo ra được giá trị chuyển đổi - yếu tố quan trọng để thương hiệu sống được trong không gian số.
Thương hiệu phải là một hệ thống có tên, có nguồn gốc, có con người đại diện và có khả năng kết nối cảm xúc. Người bán hàng trên nền tảng số cần một câu chuyện để kể, vì đó là cách duy nhất giữ chân người xem và thuyết phục họ hành động.
Câu chuyện là yếu tố giữ chân người tiêu dùng trên các livestream
Người tiêu dùng cần nhất là niềm tin
- Sau quá trình hỗ trợ nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi livestream bán nông sản, theo ông, người tiêu dùng đô thị hiện nay cần gì để tin tưởng và sẵn sàng bỏ tiền mua một sản phẩm từ núi rừng?
Ông Huỳnh Nam: Hiện nay, niềm tin của người tiêu dùng trên mạng xã hội đang bị bào mòn bởi quá nhiều biến cố như hàng giả, hàng kém chất lượng, giấy tờ công bố thì thật nhưng sản phẩm giao thì giả. Đó là lý do vì sao sản phẩm của bà con nông dân, dù tốt đến mấy, vẫn khó “lên sóng” thành công nếu không có hệ thống phân phối trung thực, minh bạch và đủ năng lực xử lý đơn hàng.
Theo tôi, để tạo dựng được niềm tin với người tiêu dùng đô thị, trước hết, chính quyền địa phương phải chủ động vào cuộc. Sở Công Thương, Trung tâm xúc tiến thương mại các tỉnh nên phối hợp với các nền tảng lớn như TikTok, Shopee, Facebook… để xây dựng các gian hàng chung, được xác thực, tập trung các sản phẩm địa phương có chất lượng.
Một rào cản khác mà ít ai nói tới là năng lực hậu cần, tức là xử lý đơn hàng. Nhiều bà con livestream bán hàng rất thành công, đơn về tới tấp, nhưng không có khả năng xử lý đơn kịp thời, dẫn đến trễ hẹn, rớt đơn, ảnh hưởng uy tín. Họ vốn quen bán hàng truyền thống, có người đến tận nơi mua thì mới bán, chưa quen với nhịp vận hành của thương mại điện tử.
Tôi nhớ lần làm Megalive ở Thái Nguyên tháng 4 vừa rồi, có những sản phẩm rất tiềm năng như bò sấy khô của bà con H’Mông được người tiêu dùng rất thích. Hoặc khi làm Megalive quảng bá vải thiều ở Bắc Giang (nay là Bắc Ninh), người tiêu dùng cũng mua rất nhiều. Điều này cho thấy người tiêu dùng sẵn sàng bỏ tiền cho các sản phẩm thực sự có chất lượng, có câu chuyện.
Song, nhiều sản phẩm vùng đồng bào dân tộc dù tốt nhưng lại chưa được người tiêu dùng biết đến. Ví dụ như trà hoa vàng ở Thái Nguyên có cả vùng trồng 10ha, được bảo tồn kỹ lưỡng, nguyên liệu tốt, nhưng những người làm quảng bá như tôi lại chưa được biết đến. Điều đó cho thấy, vấn đề không nằm ở chất lượng, mà là thiếu hệ thống lan tỏa thương hiệu đến đúng người tiêu dùng. Mà một khi sản phẩm không ai biết đến thì dù ngon mấy, sạch mấy cũng như “hoa đẹp nở trong rừng sâu”, chẳng ai thấy, chẳng ai mua.
Có câu chuyện, sản phẩm vùng dân tộc sẽ dễ dàng đến với người tiêu dùng
Không ai kể chuyện thì thương hiệu mãi là “bí mật” của vùng cao
- Khi đồng hành với bà con và hợp tác xã vùng cao, ông cho rằng, đâu là khó khăn lớn nhất trong việc kể câu chuyện thương hiệu để hấp dẫn khách hàng?
Ông Huỳnh Nam: Khó khăn lớn nhất là người sản xuất không thể tự kể được câu chuyện của chính mình. Đồng bào dân tộc thiểu số gặp rào cản về ngôn ngữ, công nghệ, kỹ năng kể chuyện và cả tư duy xây dựng thương hiệu. Ngay cả việc dịch từ tiếng dân tộc sang tiếng Kinh, rồi thể hiện nó sao cho hấp dẫn với người dùng mạng xã hội là cả một hành trình phức tạp, dễ bị “tam sao thất bản”.
Do đó, tôi cho rằng cần một hệ thống form mẫu chuẩn, giống như khung nội dung để kể chuyện thương hiệu. Câu chuyện đó có thể do chính quyền địa phương, các cơ quan truyền thông, hoặc doanh nghiệp thương mại điện tử kể giúp bà con. Việc này nên được coi là một phần trong chương trình hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP và xúc tiến tiêu thụ.
Ngoài ra, tôi thấy rất cần thiết kết hợp bán hàng với du lịch nông nghiệp. Một sản phẩm gắn với trải nghiệm thực tế như đến vườn, chụp ảnh, nghe kể về quá trình trồng trọt, chế biến sẽ tạo ra ấn tượng sâu sắc hơn. Trà hoa vàng ở Thái Nguyên là ví dụ: cảnh đẹp có, chè ngon có, nhưng trải nghiệm lại nghèo nàn. Người ta đến, chụp ảnh, rồi về. Không có dịch vụ nghỉ ngơi, ăn uống, tương tác thì không tạo ra sự gắn bó.
Tôi từng đề xuất các địa phương nên đầu tư vào mô hình du lịch nông nghiệp kết hợp bán hàng, trải nghiệm và kể chuyện. Khi đó, sản phẩm sẽ không chỉ “lên sóng” trong livestream mà còn có thể sống trong lòng người tiêu dùng như một phần kỷ niệm, một dấu ấn vùng miền.
Xin cảm ơn ông!
Công ty CP Truyền thông và Giải trí Jin Pro Network đã hỗ trợ tiêu thụ nông sản của bà con đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh… qua nhiều phiên Megalive, giúp sản phẩm lan toả mạnh mẽ.