Đóng

Thương mại hóa cây đặc sản - Đòn bẩy giảm nghèo ở Thái Nguyên

Đặc sản Thái Nguyên cùng mô hình hợp tác xã đang trở thành đòn bẩy giúp nông dân thoát nghèo bền vững, xây dựng nền nông nghiệp giá trị cao

Thương mại hóa cây đặc sản địa phương

Tỉnh Thái Nguyên vốn được biết đến là vùng đất chè xanh nổi tiếng, song ít ai biết rằng nơi đây còn sở hữu một kho tàng giống cây trồng bản địa vô cùng đa dạng. Việc Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật (Bộ NN&MT) công nhận đặc cách cho lưu hành 9 giống cây đặc sản đã tạo nên bước ngoặt lớn đối với địa phương. Danh sách này bao gồm những nông sản gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa và kinh tế của người dân như nếp khẩu Nua Lếch, khẩu Nua Pái, nếp Tài, khẩu Nua Lương, cam sành, quýt, hồng không hạt, đào Toáng và nghệ vàng.

Hồng LT1 tại xã Na Rì bắt đầu vào vụ thu hoạch. Ảnh: Thu Cúc

Không chỉ mang ý nghĩa pháp lý, sự công nhận này còn là “tấm vé thông hành” để nông sản Thái Nguyên tự tin bước ra thị trường, với nguồn gốc rõ ràng, chất lượng đảm bảo. Nhờ vậy, bà con mạnh dạn mở rộng diện tích, còn doanh nghiệp và hợp tác xã có cơ sở pháp lý để đầu tư, ký kết hợp đồng tiêu thụ. Đây chính là tiền đề giúp nông dân thoát khỏi sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, hướng tới nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn.

Trong số các cây trồng đặc sản, hồng không hạt nổi lên như một biểu tượng. Với diện tích trên 800 ha, loại quả đặc sản này không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn được bảo hộ chỉ dẫn địa lý từ năm 2010. Hồng không hạt Thái Nguyên có hình thức đẹp, vị ngọt thanh, dễ bảo quản và tiêu thụ, vì vậy nhanh chóng được thị trường đón nhận. Việc chuẩn hóa quy trình canh tác, áp dụng kỹ thuật mới, nhân giống bằng cây đầu dòng đã giúp nhiều hộ gia đình có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Hợp tác xã (HTX) Tân Phong (xã Quảng Bạch) là một trong những đơn vị tiên phong giữ vai trò nòng cốt. HTX hiện duy trì 17 cây đầu dòng, được coi như “ngân hàng gen” quý giá phục vụ nhân giống. Nhờ đó, nguồn giống chất lượng cao được đảm bảo, giúp người dân không còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thống, mà có thể tạo ra sản phẩm đồng đều, đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường.

Song hành cùng hồng không hạt, cây quýt Thái Nguyên cũng là minh chứng điển hình cho khả năng làm giàu từ cây đặc sản. Năm 2012, giống quýt bản địa được cấp chỉ dẫn địa lý và đến năm 2015 được vinh danh là “Thương hiệu vàng nông nghiệp Việt Nam”. Hiện nay, diện tích quýt toàn tỉnh đã đạt 1.800 ha, trở thành nguồn thu nhập chính của hàng nghìn hộ dân.

Tuy nhiên, chặng đường phát triển của cây quýt không hề bằng phẳng. Trước đây, việc thiếu giống chuẩn từng khiến nông dân gặp rủi ro. Ông Nguyễn Mạnh Hà (xã Bạch Thông) nhớ lại: “Có thời điểm, chúng tôi phải chặt bỏ cả vườn vì cây không đúng giống, thiệt hại rất lớn. Nay giống đã được công nhận, bà con yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất”.

Nhờ những nỗ lực phục tráng giống, đặc biệt từ các HTX như Đại Hà, cây quýt bản địa đã khẳng định vị thế. Giống mới cho năng suất cao, quả ít hạt, mọng nước, lại có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt. Điều này giúp giảm chi phí sản xuất, đồng thời nâng giá trị thương phẩm. Khi sản phẩm được gắn tem truy xuất nguồn gốc và ký hợp đồng bao tiêu, người dân càng yên tâm gắn bó lâu dài, từ thoát nghèo đến tiến tới làm giàu.

Chuẩn hóa sản xuất, mở đường giảm nghèo bền vững

Không dừng lại ở hồng hay quýt, nhiều giống lúa nếp đặc sản và cây ăn quả khác của Thái Nguyên cũng đang được phục tráng, chuẩn hóa quy trình sản xuất. Đây là cơ hội để người dân mở rộng quy mô hàng hóa, tiến tới đạt các chứng nhận VietGAP, hữu cơ và OCOP, qua đó dễ dàng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước.

Để nông sản có chỗ đứng trên thị trường, vai trò của các hợp tác xã là vô cùng quan trọng. HTX không chỉ là nơi tập hợp nông dân, mà còn là cầu nối thị trường. Họ cung cấp giống chất lượng, tổ chức tập huấn kỹ thuật, giám sát quá trình sản xuất và đứng ra liên kết tiêu thụ. Chính sự tham gia của HTX đã giúp nông dân tránh cảnh “được mùa mất giá,” đảm bảo đầu ra ổn định, từng bước giảm nghèo bền vững.

Các công nhân sơ chế mơ tại Công ty TNHH Việt Nam MISAKI. Ảnh: Thu Cúc

Ông Triệu Tiến Long (xã Nam Cường) khẳng định: “Trước kia chỉ trồng theo kinh nghiệm, sản lượng thấp, thu nhập bấp bênh. Nay có giống chuẩn, lại được tập huấn kỹ thuật, bà con yên tâm mở rộng diện tích”.

Thực tế cho thấy, mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn với thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, chính là chìa khóa mở ra con đường giảm nghèo cho nông dân Thái Nguyên. Mỗi quả hồng không hạt, mỗi quả quýt hay hạt gạo đặc sản đều chứa đựng khát vọng vươn lên làm giàu của người dân.

Quan trọng hơn, sự liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, hợp tác xã và nông dân đã góp phần nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội và khẳng định vị thế nông sản Thái Nguyên trên bản đồ nông nghiệp cả nước. Nông dân không còn đơn độc, mà trở thành một phần của hệ sinh thái sản xuất bền vững, có tổ chức, có liên kết và có thương hiệu.

Với hướng đi này, Thái Nguyên đang từng bước xây dựng hình ảnh một vùng nông nghiệp đặc sản đặc sắc, vừa gìn giữ nguồn gen bản địa, vừa áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại. Hành trình giảm nghèo bền vững không chỉ mang lại đời sống ấm no cho người dân, mà còn góp phần vào sự phát triển thịnh vượng chung của vùng đất chè.

Phương Cúc