Đóng

Từ con ngựa nhỏ đến giấc mơ lớn của người Biên Sơn

Từ tập quán chăn thả tự nhiên sang chăn nuôi nhốt trồng cỏ, thôn Chả (xã Biên Sơn, tỉnh Bắc Ninh) đã tìm thấy hướng sinh kế mới, giúp nhiều hộ dân thoát nghèo bền vững.

Những năm gần đây, thôn Chả, xã Biên Sơn (tỉnh Bắc Ninh) đã trở thành điểm sáng trong phát triển chăn nuôi của vùng trung du, với mô hình nuôi ngựa đem lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định cho bà con dân tộc thiểu số. Trước kia, người dân nơi đây chủ yếu chăn thả tự nhiên, sáng đưa ngựa lên đồi, chiều dắt về, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Khi diện tích rừng trồng mở rộng, đất chăn thả dần thu hẹp, đời sống bà con gặp nhiều khó khăn, buộc phải tìm hướng đi mới phù hợp hơn.

Từ thực tế ấy, chi bộ thôn Chả đã vận động người dân chuyển đổi phương thức chăn nuôi, từ chăn thả sang nuôi nhốt, kết hợp trồng cỏ tại chỗ, tận dụng bãi đất ven suối và đồi thấp để chủ động nguồn thức ăn. Nhờ cách làm linh hoạt và phù hợp điều kiện địa phương, mô hình nhanh chóng lan tỏa, giúp nhiều hộ vươn lên thoát nghèo, có thu nhập ổn định. Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Vi Văn Chi, Bí thư Chi bộ thôn Chả, xã Biên Sơn về quá trình hình thành, hiệu quả và định hướng nhân rộng mô hình chăn nuôi ngựa tại địa phương.

Từ tập quán chăn thả đến mô hình nuôi ngựa trồng cỏ

- Thưa ông, xuất phát từ đâu chi bộ và người dân thôn Chả lựa chọn mô hình chăn nuôi ngựa làm hướng phát triển kinh tế đặc trưng cho bà con vùng dân tộc thiểu số?

Ông Vi Văn Chi: Thôn Chả chúng tôi là vùng đồi thấp, xen kẽ khe suối, bà con chủ yếu là dân tộc Nùng và Sán Chỉ, đời sống còn nhiều khó khăn. Trước đây, người dân quen với chăn thả tự nhiên, sáng đưa ngựa lên rừng, tối dắt về, coi như một thói quen bao đời. Nhưng khi đất rừng trồng ngày càng nhiều, diện tích chăn thả thu hẹp, mô hình cũ không còn phù hợp.

Ông Vi Văn Chi, Bí thư Chi bộ thôn Chả, xã Biên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Ngọc Hoa

Từ thực tế đó, chi bộ đã họp bàn và thống nhất chủ trương chọn mô hình chăn nuôi ngựa nhốt làm hướng phát triển chính. Bà con tận dụng đất vườn, đất ven suối để trồng cỏ nuôi ngựa tại chuồng, vừa chủ động được thức ăn, vừa giảm được rủi ro khi chăn thả. Con ngựa vốn quen địa hình đồi núi, ít bệnh, ăn tạp, chi phí đầu tư thấp mà hiệu quả kinh tế lại cao.

Ban đầu, chỉ có vài hộ mạnh dạn làm, mỗi nhà 1-2 con. Nhưng sau khi thấy lợi nhuận rõ rệt, chi bộ đã vận động, nhân rộng ra cả thôn. Đến nay, trong 300 hộ dân thì phần lớn đã nuôi ngựa, nhiều hộ có từ 10 đến 15 con, coi đó là nguồn thu chính. Có thể nói, ngựa giờ đây đã trở thành “của để dành” của bà con vùng đồi Biên Sơn.

- Trong quá trình triển khai mô hình này, chi bộ đã có những cách làm nào để vận động bà con tham gia và nhân rộng hiệu quả, thưa ông?

Ông Vi Văn Chi: Ngay từ đầu, chi bộ đã xác định phải làm từng bước, không thể nóng vội. Chúng tôi bám sát chỉ đạo của xã, đưa nội dung phát triển mô hình chăn nuôi ngựa vào nghị quyết sinh hoạt định kỳ của chi bộ, coi đây là tiêu chí phát triển kinh tế hộ.

Các đoàn thể như Hội Nông dân, Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cùng tham gia tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật, chọn hộ đi đầu làm điểm để bà con học tập. Khi hợp tác xã nông nghiệp của thôn được thành lập, chúng tôi phối hợp để HTX làm đầu mối hỗ trợ vốn vay, tổ chức tập huấn, liên hệ đầu ra.

Cũng nhờ có hợp tác xã mà nhiều hộ dân được đi học tập, tham quan mô hình ở các địa phương khác, biết cách làm chuồng trại, ủ thức ăn, phòng bệnh. Bà con học nhanh lắm, người biết chỉ người chưa biết, nhà có kinh nghiệm chia sẻ cho nhau. Dần dần, phong trào nuôi ngựa lan rộng khắp thôn.

Thực tế cho thấy, mô hình này vừa phù hợp điều kiện địa phương, vừa giúp tận dụng được lao động nông nhàn. Một người có thể chăm vài con ngựa mà vẫn làm được việc khác. Có hộ thu hàng chục triệu đồng mỗi năm, cuộc sống khấm khá hơn nhiều so với trước kia.

Thôn Chả đã tìm thấy hướng sinh kế mới, giúp nhiều hộ dân thoát nghèo bền vững. Ảnh: Ngọc Hoa

Khi con ngựa trở thành “vốn quý” của vùng trung du

- Mô hình mang lại hiệu quả rõ rệt, song chắc hẳn cũng có những khó khăn về kỹ thuật và thị trường. Chi bộ có định hướng gì để hỗ trợ bà con trong thời gian tới?

Ông Vi Văn Chi: Đúng vậy, khó khăn không ít đâu. Nuôi ngựa tưởng đơn giản mà không phải ai cũng làm được. Người nuôi lâu năm thì có kinh nghiệm, còn hộ mới bắt đầu thường lúng túng, dẫn đến ngựa bị bệnh, chậm lớn. Cái khó nữa là đầu ra chưa ổn định. Giá ngựa có thời điểm lên rất cao, bà con ồ ạt đầu tư; nhưng khi giá hạ, lại chịu lỗ. Cứ lên xuống theo “phong trào” như vậy rất rủi ro.

Chi bộ đã quán triệt rõ trong các buổi họp: phải chăn nuôi có kế hoạch, chọn thời điểm hợp lý để đầu tư và bán ra, tránh chạy theo thị trường. Chúng tôi cũng kiến nghị cấp trên hỗ trợ mở lớp kỹ thuật, hướng dẫn phòng bệnh, tiêm phòng, và tìm giải pháp ổn định đầu ra thông qua hợp đồng bao tiêu.

Thời gian tới, thôn sẽ phối hợp với hợp tác xã mở thêm vùng trồng cỏ tập trung, quy hoạch khu chăn nuôi phù hợp, và tiến tới xây dựng thương hiệu “Ngựa Biên Sơn” gắn với sản phẩm đặc sản vùng đồi. Mục tiêu không chỉ là thoát nghèo, mà còn là xây dựng sinh kế bền vững, vừa phát triển kinh tế, vừa gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, nơi con ngựa không chỉ là phương tiện sinh kế, mà còn là hình ảnh thân thuộc trong đời sống miền sơn cước.

Xin cảm ơn ông!

Thôn Chả, xã Biên Sơn (tỉnh Bắc Ninh) hiện có hơn 300 hộ dân, trong đó trên 70% hộ đang tham gia chăn nuôi ngựa. Trung bình mỗi hộ nuôi từ 5-10 con, hộ nhiều lên tới 15 con. Ngựa được nuôi chủ yếu bằng cỏ trồng ven suối, tận dụng nguồn đất đồi sẵn có, nên chi phí thấp mà hiệu quả kinh tế lại cao. Mỗi con ngựa mang về lãi ròng từ 15-20 triệu đồng mỗi năm, trở thành nguồn thu ổn định cho nhiều gia đình. Mô hình này đang được chính quyền địa phương khuyến khích nhân rộng, hướng tới xây dựng thương hiệu “Ngựa Biên Sơn” - sản phẩm đặc trưng mang đậm bản sắc vùng dân tộc miền đồi.

Thiên Kim - Hải Linh