Đóng

Xây dựng cơ chế EPR phải xuất phát từ thực tiễn

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu, xây dựng cơ chế EPR không thể tiếp cận theo lối hành chính, tư duy “ngồi trong phòng máy lạnh”, mà phải xuất phát từ thực tiễn.

Chiều ngày 24/12, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp nghe báo cáo, cho ý kiến về nội dung dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì và trách nhiệm xử lý chất thải của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (Dự thảo Nghị định); cùng nội dung liên quan đến thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu (EPR).

Sử dụng hiệu quả nguồn tiền cho các khâu thu gom, tái chế và xử lý

Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh tinh thần xuyên suốt trong hoàn thiện Dự thảo Nghị định là không cầu toàn về hình thức, song chính sách ban hành phải triển khai được ngay và vận hành thực chất. Việc xây dựng cơ chế EPR không thể tiếp cận theo lối hành chính, tư duy “ngồi trong phòng máy lạnh”, mà phải xuất phát từ thực tiễn, thiết kế rõ cách thức vận hành và trả lời được câu hỏi: chính sách có khả năng thực thi ngay hay không.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì cuộc họp. Ảnh: VGP/Minh Khôi

Theo Phó Thủ tướng, chỉ khi xác định rõ đối tượng, phạm vi và xây dựng được chính sách cụ thể, khả thi, việc triển khai EPR mới thể hiện đúng tính chất “cá biệt, đặc biệt” của nhóm chính sách này. Khác với các quy định chung hiện hành, EPR không hoàn toàn mang tính bắt buộc, mà là cơ chế đóng góp, hỗ trợ bổ sung cho hoạt động xử lý chất thải, không bao trùm toàn bộ chi phí tái chế, tiêu hủy bắt buộc.

Luật Bảo vệ môi trường và khung chính sách hiện nay đã bao quát các loại chất thải như sinh hoạt, công nghiệp, nhựa, chất thải nguy hại. Trong khi đó, Dự thảo Nghị định về EPR tập trung vào danh mục các đối tượng khó thực hiện trên thực tế, có tính chất phức tạp, tác động lớn đến môi trường, nguy hại và khó khăn trong khâu thu gom; danh mục này sẽ được mở rộng theo lộ trình phù hợp.

Mục tiêu của EPR là định hướng doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu và người tiêu dùng tiếp cận các sản phẩm thân thiện hơn với môi trường thông qua sự tham gia trực tiếp của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu. Về lâu dài, chính sách thay đổi nhận thức, thúc đẩy cải tiến công nghệ, từng bước loại bỏ sản phẩm không thân thiện với môi trường, thu hẹp dần danh mục sản phẩm phải áp dụng EPR.

Phó Thủ tướng đặc biệt lưu ý yêu cầu, tháo gỡ vướng mắc trong khâu tổ chức thực hiện để nguồn tiền EPR do doanh nghiệp tự nguyện đóng góp được giải ngân, sử dụng hiệu quả. Cần làm rõ điểm nghẽn nằm ở quản lý đối tượng hay ở khâu thu gom, nhất là trong bối cảnh việc khuyến khích người tiêu dùng hoàn trả sản phẩm khi hết vòng đời còn nhiều thách thức.

Để cơ chế EPR vận hành thực chất, phải xác định đúng phạm vi, đúng đối tượng và tính đúng, tính đủ trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu ngay từ khi hàng hóa được đưa ra thị trường. Chi phí xử lý, tái chế cần được tính từ đầu và phân bổ hợp lý trong toàn bộ chuỗi, đặc biệt ở khâu thu gom, tạo động lực để người tiêu dùng chủ động đưa sản phẩm đã qua sử dụng đến đúng điểm thu hồi.

Nguồn tiền EPR phải được quản lý theo nguyên tắc tự nguyện, công khai, minh bạch; không hành chính hóa như ngân sách nhà nước. Nhà nước không ban hành định mức, đơn giá cứng nhắc, không tổ chức bộ máy mới và không áp đặt quyết định chi tiêu thay cho doanh nghiệp.

Nguyên tắc xuyên suốt, “ai đóng góp thì người đó được tham gia quyết định và giám sát”, thông qua một hội đồng gồm các doanh nghiệp đóng góp, đơn vị tái chế, xử lý và các chủ thể liên quan, với sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước.

Nếu được thiết kế và vận hành đúng hướng, cơ chế EPR sẽ tạo động lực để doanh nghiệp chủ động cải tiến, giảm dần sản phẩm thuộc diện áp dụng EPR, đồng thời hình thành sự liên kết hiệu quả giữa các khâu sản xuất, thu gom, tái chế, xử lý, qua đó bảo vệ môi trường một cách thực chất.

Gắn trách nhiệm của doanh nghiệp, người tiêu dùng với vòng đời sản phẩm

Việc xây dựng chính sách EPR cần tận dụng các lực lượng thu gom sẵn có; phân định rõ trách nhiệm theo từng nhóm sản phẩm. Đối với những loại chất thải mà Việt Nam chưa đủ năng lực xử lý, phải quy định cụ thể trách nhiệm đưa trở lại nhà sản xuất.

Trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và người tiêu dùng cần được tính toán ngay từ đầu vòng đời sản phẩm; chi phí xử lý, tái chế phải được đưa vào giá hàng hóa để tạo động lực khuyến khích người sử dụng tự nguyện hoàn trả sản phẩm khi thải bỏ.

Toàn cảnh cuộc họp. Ảnh: VGP/Minh Khôi

Dẫn kinh nghiệm quốc tế, Phó Thủ tướng cho biết, chi phí xử lý, tái chế thường được tính sẵn trong giá sản phẩm; khi hết vòng đời, người sử dụng buộc phải hoàn trả đúng nơi quy định, nếu không sẽ chịu chi phí cao hơn hoặc bị coi là vi phạm pháp luật. Cách làm này biến việc hoàn trả sản phẩm thành hành vi tự nguyện, hợp lý và dễ thực thi, là hướng Việt Nam cần nghiên cứu, tiếp thu để hoàn thiện khung pháp luật về bảo vệ môi trường theo hướng hiệu quả, khả thi.

Phó Thủ tướng yêu cầu, cơ chế EPR phải quy định rõ trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, xác định nghĩa vụ tài chính gắn với lượng hàng hóa đưa ra thị trường. Nguyên tắc, mỗi sản phẩm chỉ gắn với một chủ thể chịu trách nhiệm: nếu nhà sản xuất đồng thời là nhà phân phối thì nhà sản xuất chịu trách nhiệm; trường hợp nhà nhập khẩu đưa vào thị trường sản phẩm của nhiều nhà sản xuất thì nhà nhập khẩu phải đứng ra thực hiện nghĩa vụ và phân bổ trách nhiệm với các nhà sản xuất liên quan.

Mọi quy định cần được thiết kế rõ ràng, minh bạch và đưa trực tiếp vào nghị định, bảo đảm việc thu và quản lý nguồn lực tài chính thống nhất, khả thi, tránh tình trạng ban hành chính sách nhưng không xác định được chủ thể chịu trách nhiệm hoặc phát sinh cách hiểu khác nhau trong quá trình thực hiện.

Tại cuộc họp, đại diện Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), Liên minh Tái chế Bao bì Việt Nam (PRO Vietnam), Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam (VBA)… kiến nghị làm rõ các khái niệm liên quan đến thu gom, công nhận sản phẩm sau tái chế, minh bạch cơ chế quản lý, sử dụng Quỹ EPR.

Các hiệp hội đề xuất quy định nguyên tắc tính phí FS (đóng góp tái chế) một cách rõ ràng, ổn định, tránh tình trạng vừa tăng tỷ lệ tái chế bắt buộc vừa điều chỉnh tăng phí FS trong cùng một năm, gây áp lực chi phí cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển hạ tầng tái chế trong nước để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện EPR hiệu quả.

Nguyễn Hạnh