Khởi sắc từ dự án hỗ trợ sinh kế
Những ngày cuối thu, dọc các sườn đồi xã Bình An (huyện Lâm Bình cũ), tỉnh Tuyên Quang, những nương chè xanh mướt trải dài như những dải lụa. Mùi chè tươi ngan ngát quyện trong gió khiến ai đi ngang cũng thấy lòng bình yên. Ít ai biết rằng chỉ vài năm trước, vùng đất này còn hoang hóa, những luống chè cằn cỗi vì thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, đầu ra bấp bênh khiến người dân dần bỏ bê cây trồng truyền thống.
Từ khi Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, thông qua Viện Phát triển Kinh tế Hợp tác, triển khai Dự án “Hỗ trợ phát triển sản xuất cho các hộ trồng cây chè tại xã Bình An”, bức tranh ấy đã thay đổi. Dự án là một phần trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, tập trung vào đa dạng hóa sinh kế và phát triển mô hình giảm nghèo bền vững, đặc biệt cho bà con vùng dân tộc thiểu số.
Chè Shan tuyết là đặc sản của bà con Tuyên Quang (Ảnh minh hoạ)
Theo Quyết định số 478/QĐ-CQLMHTXVN ngày 13/6/2025, Liên minh HTX Việt Nam giao cho Viện Phát triển Kinh tế Hợp tác triển khai dự án với tổng kinh phí 2,5 tỷ đồng, trong đó 2 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước, phần còn lại là vốn đối ứng của 54 hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tại xã Bình An.
Đây là vùng có điều kiện tự nhiên lý tưởng cho cây chè Shan tuyết cổ thụ, nhưng nhiều năm qua, người dân vẫn canh tác rời rạc, thiếu quy hoạch, dẫn đến năng suất thấp, chất lượng không ổn định.
Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Viện đã chủ động phối hợp với Liên minh HTX tỉnh Tuyên Quang, UBND xã Bình An và các cơ quan chuyên môn tổ chức khảo sát thực tế tại vùng chè. Trong đó có 54 hộ đủ điều kiện đã được lựa chọn công khai theo tiêu chí của chương trình mục tiêu quốc gia. Diện tích triển khai đạt 22 ha chè, tạo tiền đề quan trọng cho mô hình liên kết sản xuất tập trung, hướng tới hình thành vùng nguyên liệu chè chất lượng cao.
Bà Nguyễn Thị Thủy - Phó Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế Hợp tác cho biết: “Chúng tôi không làm theo cách cũ là hỗ trợ vật chất rồi để bà con tự xoay xở. Viện chủ trương ‘cầm tay chỉ việc’, chuyển giao kỹ thuật canh tác hữu cơ, quản lý sâu bệnh sinh học, thu hái và bảo quản đúng chuẩn. Mục tiêu là giúp người dân làm chủ kỹ thuật, thay đổi tư duy sản xuất, từ đó thoát nghèo bằng chính cây chè của quê mình”.
Hàng chục hộ dân được tập huấn kỹ thuật chăm sóc, thu hái, sơ chế chè an toàn (Ảnh minh hoạ)
Theo đó, hàng chục hộ dân được tập huấn kỹ thuật chăm sóc, thu hái, sơ chế chè an toàn; được hỗ trợ giống mới năng suất cao, hệ thống tưới tiết kiệm nước, và đặc biệt là kết nối với doanh nghiệp để bao tiêu sản phẩm. Nếu trước kia, người dân trồng chè theo kiểu “mưa nắng phó mặc trời”, thì nay, họ đã bắt đầu sản xuất theo quy trình VietGAP, chú trọng chất lượng hơn sản lượng.
Xây nền liên kết, gắn kết cộng đồng
Điểm đặc biệt của dự án không chỉ ở việc hỗ trợ vật chất mà ở cách xây dựng mô hình liên kết sản xuất giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Hợp tác xã chè Bình An được củng cố, trở thành đầu mối tập hợp hộ trồng chè, hướng dẫn kỹ thuật, kiểm soát chất lượng, đồng thời làm cầu nối tiêu thụ với các đơn vị thu mua trong và ngoài tỉnh.
“Giờ bà con không còn lo trồng ra rồi không biết bán cho ai. Doanh nghiệp đã đến tận nơi ký hợp đồng bao tiêu, hướng dẫn thu hái, chế biến để đạt chuẩn. Năng suất chè tăng, giá bán ổn định, đời sống dần khá lên” - một xã viên HTX chia sẻ.
Trước khi dự án được triển khai, năng suất chè Shan Tuyết tại Bình An chỉ đạt 1,5 - 2 tấn búp tươi/ha/năm, phần lớn do cây thiếu dinh dưỡng và chăm sóc không đúng kỹ thuật. Sau khi được hỗ trợ đồng bộ về phân bón và kỹ thuật, năng suất dự kiến tăng lên 3 - 4 tấn búp tươi/ha/năm, tức gấp 2 đến 2,7 lần so với trước.
Với diện tích 22 ha trong khu vực dự án, sản lượng búp tươi tăng thêm 33 - 55 tấn/năm, tương ứng giá trị 260 - 500 triệu đồng theo giá thị trường hiện tại (khoảng 8.000 đồng/kg). Nếu tính đến chế biến sâu và xây dựng thương hiệu OCOP, giá trị có thể tăng thêm 10 - 15%.
Đằng sau những con số ấy là cuộc đổi đời thầm lặng của nhiều hộ nông dân vùng cao. Chị Ma Thị Tỵ, đồng bào Mường, một hộ tham gia dự án, chia sẻ: “Trước đây chúng tôi trồng chè tự nhiên, không biết kỹ thuật gì, cây còi cọc, ít lá. Từ khi được hướng dẫn bón phân hữu cơ, chăm sóc đúng cách, cây xanh tốt hơn rõ rệt. Chúng tôi tin vụ tới năng suất sẽ cao gấp đôi. Với người vùng cao như chúng tôi, đó là hy vọng thoát nghèo thực sự.”
Nhờ dự án, diện tích chè của Bình An được phục hồi và mở rộng thêm gần 30 ha, năng suất bình quân đạt trên 9 tấn/ha/năm. Nhiều hộ trước kia chỉ đủ ăn, nay đã có tích lũy, có vốn đầu tư thêm máy móc sao, sấy, đóng gói. Một số hộ trẻ còn mạnh dạn phát triển sản phẩm chè khô, chè ướp hoa, chè túi lọc, hướng đến thị trường du lịch sinh thái của Tuyên Quang.
Không chỉ dừng ở đó, dự án còn mở ra những chuỗi giá trị mới, giúp bà con hiểu rằng cây chè không chỉ là “cây xóa đói”, mà hoàn toàn có thể trở thành “cây làm giàu” nếu được đầu tư bài bản và kết nối đúng hướng.
Từ thành công ban đầu của xã Bình An, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đang xem xét nhân rộng mô hình sang các xã vùng cao khác của Tuyên Quang và các tỉnh lân cận. Cách làm dựa trên ba trụ cột: tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ và xây dựng thương hiệu vùng miền.
Cây chè Bình An hôm nay không chỉ là nguồn thu nhập, mà còn là niềm tự hào, biểu tượng của tinh thần vươn lên thoát nghèo bền vững. Mỗi tách chè thơm là thành quả của sự đổi thay trong tư duy sản xuất, của bàn tay cần mẫn và sự đồng hành của Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã.
Khi những đồi chè dần xanh trở lại, khi nụ cười của bà con đồng bào dân tộc rạng rỡ trên nương, người ta tin rằng: hành trình giảm nghèo ở Bình An đã tìm được hướng đi đúng, bắt đầu từ những lá chè, từ sự liên kết bền chặt và khát vọng vươn lên của chính người dân nơi đây.