Đóng

Longform | Chè Shan tuyết ống lam: Tinh hoa đất trời giữa Tây Bắc

Trên những sườn núi cao, chè Shan tuyết cổ thụ vẫn lặng lẽ hít sương, hút nắng. Khi được gói trong ống lam, hương vị ấy trở thành một biểu tượng đặc biệt vùng cao.

 

Ở những vùng núi quanh năm mây phủ như Tà Xùa (Sơn La) hay Đồng Hỷ (Thái Nguyên), cây chè Shan tuyết cổ thụ đã tồn tại hàng trăm năm như chứng nhân của đất trời. Mỗi buổi sớm, khi màn sương còn vương trên từng tán lá, người Dao, người Mông lại gùi gió sương lên rừng, chọn những búp chè non mập mạp, trắng mịn như phủ tuyết về sao lấy chè để bán.

Những cây chè cổ thụ mọc chênh vênh trên vách núi, thân xù xì, rêu phong bám dày, gốc lớn đến vài người ôm không xuể. Tại xã Tô Múa, Sơn La, có hơn 100 cây chè Shan tuyết cổ thụ được công nhận là Cây Di sản Việt Nam - một kho tàng sống giữa đại ngàn. Trên đỉnh Tà Xùa, nơi độ cao vượt 1.500m, mây quẩn quanh ngày đêm, đất nghèo dinh dưỡng nhưng cây chè vẫn xanh mướt, bền bỉ như ý chí người vùng cao.

 

Cũng là chè Shan tuyết, nhưng ở Thái Nguyên, giống chè cổ được trồng rải rác ở các xã vùng cao như Đồng Phúc, Yên Bình. Nước trà Shan nơi đây có màu vàng mật ong, vị chát dịu rồi chuyển sang ngọt sâu như một ẩn dụ về con người miền núi: mạnh mẽ, mộc mạc mà sâu lắng.

Không giống những đồi chè đồng bằng được cắt tỉa ngay hàng thẳng lối, cây chè Shan tuyết sống tự nhiên, hấp thụ tinh khí trời đất. Chính sự hoang dã ấy tạo nên hương vị riêng biệt, khiến người thưởng trà có cảm giác như đang uống cả gió, mây và nắng của núi rừng.

 

Thứ “vị” ấy, không chỉ là sản phẩm nông nghiệp, mà là tinh thần của vùng cao, nơi thiên nhiên và con người giao hòa trong từng búp trà.

Nếu như chè Shan tuyết vốn đã nổi tiếng bởi hương vị thanh khiết, thì chè Shan tuyết ống lam - sản phẩm sáng tạo của người dân vùng Tà Xùa (Sơn La) lại đưa sản phẩm này lên một tầm cao mới.

Trong gian bếp khói lam chiều, chàng trai người Mông Lù A Châu đã nghĩ ra cách sao chè rồi nhồi vào ống tre tươi dài 20-30 cm, gác trên gác bếp để hong bằng khói củi rừng. Hơi ấm và hương nứa quyện vào từng sợi chè, tạo nên vị đậm, thơm ngậy và ngọt hậu rất riêng. Mỗi ống lam là một “hũ thời gian”, càng để lâu, hương vị càng tròn đầy, sâu lắng.

Cách làm này, thoạt nghe có vẻ giản dị, nhưng lại là cả một nghệ thuật. Tre phải được chặt khi còn tươi, ống không quá dày để hơi ấm dễ thấm. Chè sao phải vừa tay, không khô quá để giữ men tự nhiên. Khi gác trên bếp, người làm phải điều chỉnh khoảng cách, tránh khói quá đặc khiến chè khét. Ba tháng, sáu tháng, thậm chí một năm, mỗi ống lam là kết tinh của sự kiên nhẫn và kinh nghiệm.

 

Sản phẩm chè Shan tuyết ống lam nhỏ gọn, tiện dụn, mỗi ống chứa khoảng 2,5–3 gram chè, giá bán từ 120.000 – 150.000 đồng/ống. Không chỉ là thức uống, đây còn là món quà mang đậm bản sắc văn hóa. Khi mở ống lam, hương chè thoảng mùi khói bếp, mùi cốm non, mùi rừng nứa… khiến người ta như đang lạc vào không gian của bản làng.

Từ mô hình cá nhân, chè ống lam nay đã trở thành sản phẩm OCOP 3 sao của xã Tà Xùa, được nhiều du khách và nhà phân phối tìm đến. Nhiều hợp tác xã ở Sơn La, Yên Bái, Thái Nguyên đang học tập mô hình này để phát triển sản phẩm địa phương.

Tương tự như vậy, một cô gái người Dao tại Thái Nguyên đã chọn trở về bản, bắt đầu hành trình khởi nghiệp bằng hương vị quê hương. Sinh ra và lớn lên ở bản Dao Phiêng Phung, tuổi thơ của Đặng Thị Dất (sinh năm 1996) gắn liền với những buổi lên rừng hái chè cùng gia đình. Chè Shan tuyết ở Phiêng Phung đã có lịch sử hàng trăm năm, thân to hai người ôm mới xuể, lá phủ một lớp lông tuyết trắng, hương vị ngọt hậu, đậm đà khó quên.

Nhưng bao năm qua, thứ “vàng xanh” ấy vẫn chỉ quanh quẩn ở bản làng, chưa thành hàng hóa, chưa mang lại nguồn thu ổn định cho người dân.

Sau khi lập gia đình, chị Đặng Thị Dất quyết định trở lại quê hương, tìm hướng thoát nghèo bằng cây chè Shan tuyết. Vợ chồng chị mạnh dạn vay 100 triệu đồng từ Ngân hàng Chính sách xã hội để mở xưởng sản xuất nhỏ, mua máy sao, máy vò, đầu tư cho khâu chế biến bài bản hơn.

Mỗi công đoạn, từ thu hái, sao chè, vò đến bảo quản đều được chị tỉ mỉ học hỏi, tuân thủ kỹ thuật để giữ trọn hương vị núi rừng.

Khi sản phẩm hoàn thiện, chị không dừng lại ở việc bán cho thương lái, mà nhanh chóng nắm bắt xu hướng mới, đưa chè Shan tuyết lên sàn thương mại điện tử, xây dựng các kênh Facebook, Zalo, TikTok để livestream bán hàng, chia sẻ về hành trình khởi nghiệp của mình.

 

Chị Đặng Thị Dất chia sẻ: “Cứ kể chuyện thật, nói bằng lòng mình thì khách hàng tin và yêu sản phẩm thôi”. Và đúng vậy, từ những video mộc mạc của cô gái Dao giữa mây núi, sản phẩm chè Shan tuyết của chị đã vượt khỏi bản làng, tìm được chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng ở miền xuôi.

Từ năm 2022 đến nay, hơn 2.000 ống trà lam đã được bán ra thị trường. Không chỉ vậy, năm 2023, dự án “Chế biến trà lam gác bếp từ chè Shan tuyết” của chị Đặng Thị Dất còn giành giải Khuyến khích Cuộc thi Dự án Khởi nghiệp Thanh niên nông thôn tỉnh Bắc Kạn (cũ), và lọt vào vòng Chung kết Dự án khởi nghiệp xanh toàn quốc lần thứ 9 do Trung tâm Nghiên cứu kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) tổ chức.

Đằng sau sự thành công đó là câu chuyện của khát vọng: khát vọng vươn lên từ bản làng, khát vọng đưa tinh hoa núi rừng ra thế giới. Chè ống lam không chỉ là sản phẩm hàng hóa, mà là cách người vùng cao giữ lại bản sắc giữa nhịp sống hiện đại.

 

Cây chè Shan tuyết không đơn thuần là cây trồng kinh tế. Với người Mông, người Dao, người Tày, đó là linh hồn của núi rừng, là biểu tượng gắn bó qua bao thế hệ. Trong nhiều bản làng, người dân vẫn tin rằng cây chè cổ thụ là nơi trú ngụ của thần núi, nên khi hái chè, họ không bao giờ chặt cành, chỉ hái búp non vào buổi sớm.

 

Từ năm 2015, chính quyền tỉnh Sơn La và Thái Nguyên đã khởi động các chương trình bảo tồn cây chè Shan cổ thụ, khảo sát quần thể cây trên 100 năm tuổi, đưa vào danh mục cây di sản để bảo vệ. Hàng trăm cây chè cổ được gắn biển, lập hồ sơ địa lý, vừa gìn giữ di sản sinh học, vừa tạo cơ sở phát triển du lịch sinh thái chè.

Các hợp tác xã chè Shan tuyết ở Bắc Yên, Mộc Châu, Định Hóa đang từng bước chuyển đổi theo hướng hữu cơ, bền vững. Sản phẩm được truy xuất nguồn gốc, gắn tem điện tử, hướng đến phân khúc trà cao cấp. Tuy nhiên, quá trình này không dễ dàng.

Khó khăn lớn nhất vẫn là quy mô sản xuất nhỏ lẻ, thiếu vốn đầu tư và công nghệ chế biến còn thủ công. Mỗi hộ làm một kiểu, chất lượng không đồng đều, sản phẩm chưa có thương hiệu mạnh. Ngoài ra, nhiều vùng trồng chè cổ thụ đang chịu tác động của biến đổi khí hậu như nắng nóng, mưa đá khiến sản lượng giảm.

Để chè Shan tuyết thực sự trở thành “báu vật kinh tế”, cần một chiến lược tổng thể. Trong đó tập trung liên kết vùng và doanh nghiệp để xây dựng thương hiệu tập thể “Chè Shan tuyết Tây Bắc”, kết nối các tỉnh Sơn La, Hà Giang, Thái Nguyên.

Bên cạnh đó, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, đưa chuyên gia nông nghiệp, công nghệ chế biến sạch vào bản, hướng dẫn ủ chè, sao chè, kiểm soát độ ẩm, đặc biệt cho sản phẩm ống lam.

Ngoài ra, phát triển du lịch chè bằng cách tổ chức tour trải nghiệm “Một ngày làm người hái chè Shan tuyết”, kết hợp quảng bá văn hóa dân tộc Mông, Dao, Tày. Cần chính sách bảo vệ cây cổ thụ, mỗi bản cần có quy ước cộng đồng, nghiêm cấm chặt phá, khuyến khích trồng bổ sung cây mới.

Những năm gần đây, Sơn La và Thái Nguyên đã tổ chức Lễ hội Chè Shan tuyết cổ thụ, kết hợp triển lãm, thi pha trà, tôn vinh nghệ nhân làm chè như một cách khơi dậy niềm tự hào và quảng bá sản phẩm bản địa.

Giữa cơn lốc hiện đại hóa, khi người ta có thể mua trà đóng túi lọc ở bất kỳ đâu, thì ở một góc nhỏ vùng cao, vẫn có những bàn tay người Mông, người Dao cẩn thận gói từng búp chè vào ống lam. Họ không làm nhanh, không sản xuất đại trà, mà chậm rãi, tỉ mỉ như thể gửi cả linh hồn của núi rừng vào đó.

 

Cầm một ống chè lam, ta như chạm vào sự mộc mạc và tinh tế cùng lúc. Mùi khói bếp, hương tre, hương chè hòa quyện thành bản giao hưởng mộc mạc của thiên nhiên. Uống một ngụm, thấy vị chát dịu rồi ngọt dần nơi cổ họng, cái ngọt không phải của đường, mà là hậu vị của kiên nhẫn và lao động.

Câu chuyện chè ống lam không chỉ là chuyện của một sản phẩm, mà là bản sắc sống động của văn hóa trà Việt, của tinh thần sáng tạo giữa khốn khó. Khi thế giới hướng tới sản phẩm tự nhiên, thủ công, mang câu chuyện riêng thì chè Shan tuyết ống lam chính là “chìa khóa vàng” mở cánh cửa xuất khẩu nông sản văn hóa Việt Nam.

Trong hành trình đó, người dân vùng cao cần được hỗ trợ về kỹ thuật, vốn, truyền thông để biến sản phẩm đặc sản thành thương hiệu quốc gia. Còn người tiêu dùng, khi chọn một ống chè lam, cũng là đang chọn gìn giữ một di sản, một hồn núi rừng.

Tà Xùa, Vân Hồ, Định Hóa… những cái tên nghe thôi đã thấy thoảng trong gió hương trà, mùi khói bếp và tiếng suối reo. Giữa bao biến động thời gian, cây chè Shan tuyết vẫn lặng lẽ đứng đó, cắm rễ giữa đất trời, chắt chiu từng giọt tinh hoa. Và từ bàn tay người dân tộc, từng ống lam lại ra đời, nhỏ bé nhưng chứa đựng cả chiều sâu văn hóa Việt.

Chè Shan tuyết ống lam không chỉ là thức uống mà là bản hòa ca giữa thiên nhiên, con người và truyền thống. Một tách trà, một ống lam, nhưng là cả hành trình lưu giữ linh hồn núi rừng, nơi tinh hoa đất trời hội tụ trong từng giọt nước vàng sóng sánh.

Nội dung: Phương Lan; Đồ hoạ: Lan Ngọc