Đóng

Giảm nghèo: Đề xuất 3 trụ cột cho sinh kế bền vững

Kết hợp chính sách hỗ trợ, hạ tầng chống thiên tai và đào tạo nghề trên 3 trụ cột tài lực, vật lực, nhân lực sẽ giúp thoát nghèo bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Người nghèo – nhóm dễ tổn thương trước thiên tai

Biến đổi khí hậu đang hiện hữu qua bão dữ dội, lũ quét, sạt lở, hạn hán và xâm nhập mặn, tác động trực tiếp đến sinh kế người dân. Theo Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), từ 2010–2020, thiên tai đã gây thiệt hại hơn 16.000 tỷ đồng cho khu vực miền núi phía Bắc. Đến năm 2023, trung du và miền núi vẫn là vùng có tỷ lệ nghèo đa chiều cao nhất, chiếm hơn 18,12%, với hơn 465.000 hộ nghèo và cận nghèo.

Lũ lụt tàn khốc cướp đi nhiều thứ của người dân Nghệ An. Ảnh: Ngọc Linh.

Từ đầu năm 2025, thiên tai tiếp tục gây thiệt hại nặng nề, làm 114 người chết và mất tích, kinh tế thiệt hại ước tính hơn 553 tỷ đồng. Người nghèo – vốn ít vốn liếng, chủ yếu dựa vào nông nghiệp – là nhóm chịu tác động mạnh nhất. Một trận lũ hoặc hạn hán có thể cuốn trôi toàn bộ vốn liếng, ảnh hưởng trực tiếp ý chí vươn lên của họ.

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách nông nghiệp và môi trường, nhấn mạnh: phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và đô thị hóa gia tăng phát thải khí nhà kính, góp phần vào biến đổi khí hậu. Việt Nam chiếm khoảng 1% quy mô kinh tế toàn cầu, vì vậy tác động khí hậu toàn cầu cũng ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, đặc biệt ở trung du, miền núi và đồng bằng. Thiên tai và biến đổi khí hậu đang tác động rất lớn đến công tác giảm nghèo bền vững.

Mặc dù người dân đã ngày càng nhận thức tầm quan trọng của ứng phó biến đổi khí hậu, vừa thích ứng với thiên tai, vừa giảm nhẹ phát thải. Các cam kết quốc tế như Thỏa thuận Paris và Net Zero tại COP26 thể hiện quyết tâm hành động bền vững. Theo PGS.TS Thọ, ba giải pháp cơ bản để ứng phó biến đổi khí hậu gồm: nguồn tài chính xanh, công nghệ xanh và tăng cường năng lực xanh, đồng thời là các yếu tố then chốt để giúp người nghèo thích ứng với thiên tai.

Thực tế cho thấy, các mô hình thích ứng là khả thi nếu được hỗ trợ đúng cách. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, người dân chuyển từ canh tác lúa truyền thống sang mô hình lúa – tôm, khi nước ngọt thì trồng lúa, khi nước lợ thì nuôi tôm. Tuy nhiên, nếu thiếu kiến thức, công nghệ và hỗ trợ tài chính, người nghèo khó có khả năng đối phó với hạn hán, xâm nhập mặn hay biến động nhiệt độ.

Các giải pháp đồng bộ giúp giảm nghèo và thích ứng thiên tai

Theo PGS.TS Thọ, giảm nghèo trong bối cảnh biến đổi khí hậu cần ưu tiên ba trụ cột là tài lực, vật lực và nhân lực, kết hợp với tuyên truyền, đào tạo và hướng dẫn kỹ thuật.

Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, đào tạo và hướng dẫn là rất quan trọng, giúp người nghèo định hình lại công việc, chuyển đổi nghề nghiệp, áp dụng công nghệ mới và tận dụng sự hỗ trợ từ Nhà nước để thích ứng với biến đổi khí hậu một cách bền vững.

Nhiều gia đình rơi vào cảnh trắng tay do thiên tai thảm khốc. Ảnh: Phạm Tuân.

Biến đổi khí hậu ngày càng mạnh, thiên tai diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp tới sinh kế và cơ hội thoát nghèo của người dân. Theo Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ, để đối phó hiệu quả, Việt Nam cần triển khai những chính sách và chiến lược đồng bộ, hướng tới phát triển bền vững.

Để thực hiện tại Việt Nam, theo ông, cần triển khai đồng bộ năm giải pháp cơ bản. Thứ nhất, xây dựng cơ chế hỗ trợ người nghèo và nhóm yếu thế tiếp cận các chính sách giảm nghèo, thiên tai và dịch vụ xã hội cơ bản. Thứ hai, cung cấp vốn ưu đãi, tín dụng thích ứng biến đổi khí hậu, đầu tư vào sinh kế và hạ tầng chống thiên tai. Thứ ba, triển khai nhà chống lũ, chống bão, kết hợp giải pháp sinh thái như trồng rừng, phủ xanh đất ngập, giảm thiểu rủi ro thiên tai. Thứ tư, đảm bảo người dân được ăn no, mặc đủ, chăm sóc y tế, tiếp cận giáo dục và có nhà để ở. Thứ năm, đào tạo, tuyên truyền và hướng dẫn người dân cải thiện sinh kế, áp dụng công nghệ thích ứng, nâng cao khả năng tự chủ trong đối phó thiên tai.

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy bổ sung, giải pháp cần phân loại theo vùng miền và đối tượng. Cụ thể, với miền núi, vùng rừng phòng hộ cần hỗ trợ người dân trồng rừng theo hợp đồng mua lại sản phẩm với giá ưu đãi, vừa bảo vệ rừng, vừa tăng thu nhập và giảm rủi ro thiên tai. Với vùng thường xuyên chịu bão lũ, cận nghèo được trao quyền trực tiếp bằng hỗ trợ vật chất và hợp đồng sản xuất; hộ kiệt nghèo cần hỗ trợ toàn diện từ vốn, sinh kế, y tế, giáo dục và các dịch vụ xã hội cơ bản. Chỉ khi người dân được trao quyền, gắn kết với thị trường và nhận hỗ trợ toàn diện từ Nhà nước, họ mới chủ động ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu và nâng cao sinh kế bền vững.

Thiên tai và biến đổi khí hậu tạo ra vòng luẩn quẩn nghèo bền vững. Chính sách hỗ trợ vì vậy cần vượt ra khỏi cứu trợ khẩn cấp, tập trung vào vốn tái sản xuất, kỹ thuật canh tác thích ứng và sinh kế bền vững. Các chương trình tín dụng ưu đãi cần tính đến rủi ro khí hậu, kèm cơ chế khoanh nợ, giãn nợ khi thiên tai xảy ra. Đào tạo nghề cũng cần thay đổi: không chỉ hướng vào nông nghiệp truyền thống, mà nên phát triển nghề phi nông nghiệp, dịch vụ hoặc nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao kèm hệ thống bảo vệ trước rủi ro khí hậu.

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách nông nghiệp và môi trường

Việt Nam cần triển khai chính sách và chiến lược đồng bộ, kết hợp xã hội – hạ tầng – nâng cao năng lực con người, vừa giảm nghèo, vừa tăng khả năng thích ứng trước thiên tai, bảo vệ sinh kế và tài sản của người dân. Biến đổi khí hậu ngày càng mạnh mẽ, và nếu không có hành động đồng bộ, nguy cơ tái nghèo và nghèo bền vững sẽ trở thành thách thức lâu dài.

Nguyễn Hạnh