Trong tiến trình phát triển đất nước, giảm nghèo luôn được Đảng và Nhà nước xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa thể hiện bản chất nhân văn sâu sắc của chế độ. Thành tựu giảm nghèo trong hơn ba thập kỷ qua đã đưa Việt Nam trở thành điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, đằng sau những con số ấn tượng ở tầm quốc gia là những câu chuyện cụ thể ở từng địa phương, nơi chính sách được triển khai và kiểm nghiệm trong thực tế.
Bắc Ninh, địa phương vốn nổi tiếng là trung tâm công nghiệp của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cũng chứa đựng những nghịch lý. Một bên là các khu công nghiệp hiện đại, mang lại thu nhập cao và đời sống ngày càng khấm khá cho hàng vạn lao động. Nhưng xen giữa bức tranh sáng sủa ấy, vẫn còn những mảng tối ở khu vực miền núi, nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, với nhiều khó khăn về sinh kế và hạn chế trong tiếp cận cơ hội phát triển. Giảm nghèo ở Bắc Ninh vì thế không chỉ là chính sách an sinh đơn thuần, mà là yêu cầu chiến lược để bảo đảm sự phát triển bao trùm, công bằng và bền vững.
Theo ông Trương Văn Bảo, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh, thời gian qua địa phương đã triển khai đồng bộ 10 dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. Trong đó, trọng tâm là hỗ trợ sản xuất theo chuỗi giá trị, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, đầu tư hạ tầng giao thông, cầu dân sinh, cũng như chú trọng đào tạo nhân lực và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần.
Ông Bảo nhấn mạnh: “Chúng tôi đặc biệt coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và vận động thay đổi ‘nếp nghĩ, cách làm’ trong cộng đồng. Nếu người dân tiếp cận chính sách trong tâm thế bị động, ỷ lại, thì hiệu quả sẽ không cao. Bắc Ninh đã phát huy hơn 500 người uy tín tại các thôn, bản như những ‘người truyền lửa’, giúp chính sách đi vào thực tế đời sống”.
Chính sự thay đổi từ nhận thức đã mở ra nhiều chuyển biến tích cực. Các lớp tập huấn về kỹ năng sản xuất, kỹ thuật chăn nuôi, ứng dụng công nghệ vào trồng trọt và chăn nuôi được tổ chức thường xuyên. Nhiều hộ dân vốn quen với lối sản xuất tự cung tự cấp nay đã mạnh dạn tham gia vào các mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ, áp dụng quy trình chuẩn, dán tem truy xuất nguồn gốc và đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử. Khi người dân nhận thấy sản phẩm bản địa có thể trở thành hàng hóa có giá trị, họ bắt đầu chủ động thay đổi cách làm, từ đó chính sách giảm nghèo phát huy hiệu quả thiết thực hơn.
Câu chuyện về HTX Nông nghiệp Xanh Yên Thế là minh chứng sống động cho nỗ lực giảm nghèo gắn với tổ chức lại sản xuất. Ông Giáp Quý Cường, Giám đốc HTX, chia sẻ rằng trước kia bà con chỉ quen chăn thả nhỏ lẻ, bán sản phẩm tại chợ phiên với giá bấp bênh. Nhưng khi HTX đứng ra làm “đầu tàu”, hỗ trợ giống, hướng dẫn kỹ thuật và bao tiêu đầu ra, bà con đã yên tâm chăn nuôi theo quy trình chuẩn. HTX đồng thời đầu tư dây chuyền giết mổ, cấp đông, chế biến sâu, đưa ra thị trường hơn 10 sản phẩm từ gà đồi, phân phối tại hệ thống siêu thị và cửa hàng thực phẩm sạch.
Từ một con gà chạy bộ vốn quen thuộc trong bữa ăn, sản phẩm đã được nâng tầm thành hàng hóa có thương hiệu. Chính sự thay đổi này đã giúp nhiều hộ dân từ nghèo vươn lên khá giả, tạo sinh kế bền vững cho cả cộng đồng. Thực tế cũng cho thấy, khi sản phẩm bản địa được “nâng hạng” bằng quy trình và công nghệ, người dân sẽ có niềm tin vào chuỗi giá trị, từ đó chủ động tham gia thay vì sản xuất nhỏ lẻ manh mún như trước.
TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, cho rằng điểm quan trọng nhất của giảm nghèo bền vững chính là nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng. Ông phân tích: “Nghèo đói không chỉ bắt nguồn từ việc thiếu vốn hay thiếu kiến thức, mà còn do sự dễ tổn thương trước cú sốc thiên tai, dịch bệnh hay biến động giá cả thị trường. Do vậy, giảm nghèo thực chất là quá trình giúp người dân có khả năng chống chịu tốt hơn, có kiến thức và công cụ để không bị đẩy trở lại dưới chuẩn nghèo”.
Từ góc nhìn này, Bắc Ninh đã cho thấy cách tiếp cận phù hợp khi gắn chính sách giảm nghèo với đào tạo, hạ tầng và sản xuất hàng hóa. Người dân không chỉ có thêm thu nhập, mà quan trọng hơn là được trao công cụ để chủ động bảo vệ thành quả của mình trước biến động. Đây chính là điểm tạo nên sự khác biệt so với cách tiếp cận giảm nghèo truyền thống, vốn thiên về trợ cấp và cứu trợ ngắn hạn.
Dù đã đạt được kết quả tích cực, Bắc Ninh vẫn đối diện với thách thức lớn về nguy cơ tái nghèo. Ông Giáp Quý Cường thẳng thắn cho biết, nhiều lúc HTX phải vay vốn từ chính bà con để duy trì chuỗi sản xuất. Điều đó thể hiện sự gắn bó, đồng lòng trong cộng đồng, nhưng cũng phản ánh rõ ràng sự thiếu hụt nguồn lực tín dụng ổn định. Nếu không có cơ chế vay vốn ưu đãi, HTX khó có thể mở rộng quy mô, còn người dân sẽ khó gắn bó lâu dài với chuỗi liên kết.
Ở tầm vĩ mô, TS. Võ Trí Thành cảnh báo rằng nhóm cận nghèo là đối tượng nhạy cảm nhất. Họ dễ bị kéo tụt lại nếu thiếu một “tấm lưới an toàn” như bảo hiểm nông nghiệp hay quỹ tiết kiệm cộng đồng. Một cơn lũ bất ngờ hay cú sốc giá cả thị trường có thể khiến hàng năm nỗ lực bị xóa sạch. Đây chính là lý do vì sao các chính sách giảm nghèo cần có thêm “lớp phòng thủ thứ hai”, để bảo đảm người dân không rơi trở lại vòng nghèo đói.
Về phía chính quyền, ông Trương Văn Bảo cho biết Bắc Ninh đã đặt mục tiêu đưa tỷ lệ nghèo về 0 vào năm 2028. Tỉnh phấn đấu giải ngân 100% vốn của chương trình mục tiêu quốc gia, ưu tiên đầu tư hạ tầng vùng dân tộc thiểu số, mở rộng mạng lưới đào tạo và tiếp tục phát huy vai trò người uy tín trong cộng đồng để tạo sức lan tỏa rộng rãi.
Thực tiễn Bắc Ninh cho thấy, giảm nghèo chỉ bền vững khi chính sách gắn với thay đổi tư duy và hành vi của người dân. Sự chuyển biến từ nhận thức mới là nền tảng để mọi hỗ trợ khác phát huy giá trị. Cùng với đó, cần khẳng định vị trí trung tâm của hợp tác xã và doanh nghiệp trong chuỗi giá trị, bởi họ là cầu nối trực tiếp giữa sản xuất và thị trường, là nhân tố quyết định việc sản phẩm bản địa có thể trở thành hàng hóa bền vững hay không.
Tuy nhiên, chính sách giảm nghèo cũng cần đi xa hơn những hỗ trợ trước mắt. Đó là phải xây dựng cơ chế phòng ngừa rủi ro, thông qua bảo hiểm nông nghiệp, quỹ tiết kiệm cộng đồng hoặc các hình thức tín dụng vi mô bền vững, để giảm nguy cơ tái nghèo. Đồng thời, trong bối cảnh chuyển đổi số, việc đào tạo kỹ năng, ứng dụng công nghệ cho người dân vùng dân tộc thiểu số cần được chú trọng hơn, để họ có thể tham gia sâu vào nền kinh tế hiện đại, tiếp cận các kênh tiêu thụ mới, không bị bỏ lại phía sau.
Khi các yếu tố này cùng hội tụ, giảm nghèo sẽ không còn là câu chuyện ngắn hạn, mà trở thành động lực phát triển dài hạn. Bắc Ninh, bằng cách chạm đúng vào “điểm đau” và khơi dậy nội lực cộng đồng, đã tạo nên một mô hình đáng để nhân rộng.
Bắc Ninh đã chứng minh rằng, giảm nghèo không chỉ là hỗ trợ vật chất, mà quan trọng hơn là làm thay đổi nếp nghĩ và cách làm của người dân. Khi tư duy sản xuất thay đổi, sản phẩm bản địa được tổ chức lại theo chuẩn mực thị trường, thì chính sách mới thực sự phát huy hiệu quả. Đây cũng là con đường để người dân tự chủ trong sinh kế, không còn phụ thuộc hoàn toàn vào hỗ trợ từ bên ngoài.
Bài học từ Bắc Ninh không chỉ có giá trị đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, mà còn gợi mở cho nhiều địa phương khác trên cả nước. Muốn giảm nghèo bền vững, phải xuất phát từ chính giá trị bản địa, phải có sự đồng hành chặt chẽ giữa chính quyền, hợp tác xã, doanh nghiệp và người dân, đồng thời phải xây dựng được cơ chế phòng ngừa rủi ro để bảo vệ thành quả. Đó chính là chìa khóa để hiện thực hóa khát vọng phát triển bao trùm, công bằng, nơi không ai bị bỏ lại phía sau.