Đóng

Hạ tầng và chính sách: Nền tảng cho chuyển dịch năng lượng

Hạ tầng truyền tải và khung chính sách nhất quán là yếu tố quyết định khả năng thu hút vốn tư nhân, thúc đẩy chuyển dịch năng lượng giai đoạn mới.

Tình hình chuyển dịch năng lượng toàn cầu

Trao đổi bên lề hội thảo “Thúc đẩy khối tư nhân tham gia đầu tư vào ngành năng lượng” do Bộ Tài chính tổ chức mới đây, TS. Nguyễn Ngọc Thủy, đại diện Văn phòng dịch vụ Dự án Liên hợp quốc (UNOPS), Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) (UNOPS-ETP) đã chia sẻ về những chuyển động toàn cầu đang định hình quá trình chuyển dịch năng lượng.

Đại điện UNOPS-ETP cho rằng, quá trình chuyển dịch năng lượng cũng rất giống với những quá trình chuyển dịch khác, đều bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. Đó có thể là yếu tố công nghệ, yếu tố kinh tế, yếu tố địa chính trị, cũng như các yếu tố xã hội và con người.

Trong bối cảnh dòng vốn toàn cầu đổi hướng, hạ tầng và chính sách trở thành nền tảng giúp Việt Nam giữ đà chuyển dịch năng lượng và mở rộng năng lượng tái tạo. Ảnh minh họa

Trong bối cảnh hiện tại, có rất nhiều biến động. Từ năm 2024 đến nay, chúng ta đã thấy nhiều thay đổi về mặt địa kinh tế; các nền kinh tế trên toàn thế giới nói chung, đặc biệt là các nền kinh tế lớn, cũng đang tái định hình lại chính sách liên quan đến năng lượng”, TS. Thủy nhận định.

Cũng theo TS. Thủy, vấn đề lạm phát, lãi suất cao, khiến dòng vốn vào hạ tầng năng lượng tái tạo bị nén lại. Từ năm 2021 - 2023, lạm phát đã đẩy chi phí logistics, giá nguyên vật liệu lên rất cao. Điều này tác động đến nguồn vốn đầu tư vào năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó là việc phân bổ không đều của các nguồn tài chính. Nguồn tài chính toàn cầu cho năng lượng tái tạo chắc chắn có tăng, nhưng phân bổ giữa các nước, giữa các khu vực là rất bất cân xứng. Năm 2024, đầu tư cho năng lượng tái tạo vào khoảng 2.400 tỷ USD, nhưng khoảng 90% tập trung ở Trung Quốc và một số ít nền kinh tế khác, trong khi những khu vực như châu Phi chỉ chiếm dưới 1% con số này.

Đó là ba xu hướng nổi cộm nhất trong năm 2025. Tất nhiên còn những thay đổi khác. Ví dụ, từ năm 2023 trở về trước, dòng vốn tập trung rất lớn vào phát triển nguồn năng lượng tái tạo, nhưng từ năm 2025, giới chuyên gia ước tính đầu tư sẽ tập trung nhiều hơn vào lưới điện, hạ tầng truyền tải và phân phối. Tôi cho rằng Việt Nam chắc chắn phải có sự thích ứng. Yếu tố địa kinh tế sẽ là yếu tố quan trọng nhất”, TS. Thủy đánh giá.

Chìa khóa hút vốn tư nhân vào năng lượng

Cũng trao đổi bên lề hội thảo, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đã chia sẻ về sự kỳ vọng của doanh nghiệp giai đoạn 2026 - 2030.

Ông Tuấn cho biết, sau khi khảo sát gần 30 nhà đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo về triển vọng và rủi ro họ nhìn thấy trong thời gian tới. Nhìn chung, các doanh nghiệp đều đánh giá Việt Nam có chiến lược và cam kết chính trị rõ ràng.

Đây là một đặc thù và cũng là một ưu điểm rất lớn của Việt Nam. Họ nhìn thấy nhiều cơ hội phát triển, đặc biệt trong năng lượng tái tạo. Hầu hết các nhà đầu tư mà tôi khảo sát đều nhận định triển vọng về năng lượng tái tạo là rất tốt”, đại diện Hiệp hội Năng lượng Việt Nam bày tỏ.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam. Ảnh: Thanh Tuấn

Theo ông Tuấn, giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần một bộ công cụ chính sách đầy đủ, đồng bộ và cân bằng, thay vì các cơ chế đơn lẻ. Một bộ chính sách hoàn chỉnh bao gồm: Chính sách phát triển và đầu tư hạ tầng; các công cụ tài chính và hỗ trợ tài chính phù hợp; các cơ chế đảm bảo hợp đồng mua bán điện đủ độ tin cậy; và một khung pháp lý nhất quán, dự đoán được, để giảm rủi ro cho doanh nghiệp.

Chỉ khi có bộ chính sách tổng thể như vậy, ngành năng lượng tái tạo mới phát triển bền vững. Và chỉ khi đó, chúng ta mới thu hút được ổn định và lâu dài dòng vốn tư nhân”, Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam nhấn mạnh.

Thông tin về những yếu tố bắt buộc phải có trong hệ thống chính sách thu hút đầu tư tư nhân, ông Tuấn cho rằng, Việt Nam cần tiến hành một cách tổng thể, đánh giá thận trọng hơn.

Chúng ta nên tiến hành từ những dự án nhỏ đến dự án lớn. Chọn đúng thời điểm và ưu tiên đúng thứ tự. Thời điểm phù hợp nhất ngay trong năm 2026 chính là hoàn thiện cơ chế cho hệ thống lưu trữ năng lượng (BESS) và thủy điện tích năng. Đây là các yếu tố sẽ hỗ trợ tốt cho phát triển năng lượng tái tạo”, ông Tuấn nhận định.

Đại diện Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho hay, BESS chưa thúc đẩy ngay lập tức đầu tư ồ ạt vào năng lượng tái tạo, nhưng nó sẽ hoàn thiện vận hành của các nhà máy hiện có, giúp tích hợp sâu hơn, nhiều hơn năng lượng tái tạo vào hệ thống.

Nếu khơi thông được cơ chế hỗ trợ cho BESS, đúng thời điểm mà giá thành BESS giảm về mức hợp lý. Khi đó, có thể tích trữ tốt hơn nguồn năng lượng tái tạo và khai thác hiệu quả các nhà máy đã đấu nối, các dự án chuyển tiếp và những dự án đang chuẩn bị hợp đồng đầu tư”, ông Tuấn kỳ vọng.

Trong khi đó, TS. Thủy cho rằng, rất khó để chọn ra một yếu tố đơn lẻ, bởi mọi thứ đều xoay quanh dòng vốn. Khi có một khung chính sách tốt, bao gồm đầy đủ các cơ chế tài chính bên trong, thì chính khung chính sách ấy trở thành trụ cột nâng đỡ toàn bộ hệ thống.

Cuối cùng chính là câu chuyện phát triển chuỗi cung ứng nội địa và nâng cao năng lực trong nước, tức là giai đoạn giữ lại dòng vốn, tạo giá trị bền vững và đóng góp thực sự cho nền kinh tế cũng như đời sống xã hội”, đại diện UNOPS-ETP nói.

Cũng theo TS.Thủy không thể chọn một chính sách duy nhất. Các yếu tố cần được kết nối, bổ trợ cho nhau để hướng đến mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội. Tất cả các yếu tố cần được hài hòa.

Hoàn thiện hạ tầng và chính sách là điều kiện then chốt để Việt Nam thu hút dòng vốn ổn định, mở rộng năng lượng tái tạo và tạo nền tảng cho chuyển dịch năng lượng bền vững.

Thanh Bình