Đóng

Liên kết chuỗi giá trị: Con đường giúp bà con thoát nghèo

Nhờ mô hình liên kết chuỗi giá trị, nhiều nông sản địa phương đã tìm được chỗ đứng trên thị trường, mang lại thu nhập ổn định cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Khi nông sản vùng cao tìm được đầu ra

Mỗi năm vào tháng 9 – 10, người dân xã Quài Tở (tỉnh Điện Biên) bước vào vụ thu hoạch táo mèo. Với hơn 170 ha trồng tập trung tại 5/7 bản, sản lượng đạt khoảng 900 tấn quả tươi/năm, Quài Tở hiện là địa phương có diện tích táo mèo lớn nhất tỉnh. Loại cây này ít tốn công chăm sóc, không cần thuốc hay phân bón nhưng vẫn mang lại hiệu quả kinh tế lâu dài.

Táo mèo, nông sản vùng cao Tây Bắc

Ông Giàng Chứ Phình, một hộ trồng táo mèo tại xã Quài Tở chia sẻ: “Gia đình tôi và nhiều hộ khác đều trồng táo mèo. Vài năm gần đây, giá bán khá tốt, đời sống bà con ổn định hơn. Nhiều hộ đang muốn mở rộng diện tích”.

Xác định táo mèo là cây trồng chủ lực, chính quyền địa phương đã vận động thành lập HTX Nông sản sạch Tây Bắc để thu mua quả sau thu hoạch và chế biến thành nhiều sản phẩm như táo mèo ngâm sành, cider táo, mứt, giấm, hay táo mèo sấy lạnh. Giám đốc HTX, chị Mùa Thị Hoa, cho biết: “Chúng tôi thành lập hợp tác xã với mong muốn giúp bà con tiêu thụ hết sản lượng và đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách an toàn, hiệu quả”.

Việc chế biến sâu không chỉ mở ra thị trường tiêu thụ ổn định, mà còn nâng cao giá trị sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ sinh học và kỹ thuật mới. Qua đó hình thành chuỗi liên kết sản xuất – chế biến bền vững, góp phần tăng thu nhập, ổn định đời sống cho bà con vùng cao.

Tại Lào Cai, từ niềm đam mê làm giàu trên chính quê hương, chị Đoàn Thị Lương, Giám đốc HTX Chế biến, Kinh doanh tổng hợp Đoàn Lương, đã biến quả táo mèo thành nhiều sản phẩm đa dạng như ô mai, mứt, giấm, rượu. Với sự hỗ trợ của chính quyền qua các lớp tập huấn, xúc tiến thương mại, HTX liên kết thu mua táo mèo tươi của bà con, tạo việc làm và đầu ra ổn định. Nhờ chế biến, đóng gói bài bản, giá trị quả táo mèo được nâng lên rõ rệt, sản phẩm vươn tới thị trường rộng lớn hơn. Hiện HTX tạo việc làm cho nhiều lao động với thu nhập bình quân 5–6 triệu đồng/tháng.

Không chỉ vùng cao, tại xã Đồng Kỳ (tỉnh Bắc Ninh), chị Nguyễn Thị Hải cũng tìm lời giải cho đầu ra nông sản. Từ năm 2010, chị bắt đầu thu mua nông sản cho bà con như khoai, sắn, ớt, dưa chuột, nhãn, vải thiều. Đến cuối năm 2020, chị liên kết với hơn chục hộ đồng bào dân tộc thiểu số thành lập Tổ hợp tác bao tiêu nông sản, cung cấp giống, vật tư và cam kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm. “Tôi đầu tư từ cây giống, bao bì, phân bón và thu mua hết nông sản bà con làm ra, để họ yên tâm sản xuất”, chị Hải cho biết.

Hiện tổ hợp tác phát triển hơn 20 ha trồng ớt, dưa leo theo hướng an toàn, đồng thời tạo việc làm ổn định cho 25–30 lao động là người dân tộc thiểu số. Bà Tô Thị Đào, thành viên tổ hợp tác, nói: “Nhờ có xưởng và nguồn hỗ trợ giống, phân bón, chúng tôi yên tâm mở rộng diện tích, sản phẩm làm ra đều có nơi tiêu thụ, thu nhập ổn định hơn”.

Bao tiêu sản phẩm – chìa khóa kết nối sản xuất với thị trường

Trong những năm gần đây, nhờ sự hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình giảm nghèo bền vững, nhiều địa phương đã triển khai hiệu quả các mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị. Qua đó, tạo sinh kế ổn định, nâng cao thu nhập và giúp hàng nghìn hộ dân ở vùng khó khăn thoát nghèo bền vững.

Từ quả táo mèo ở Lào Cai đến vùng rau quả tại Bắc Ninh, câu chuyện tạo đầu ra đã trở thành chìa khóa giúp nông dân giảm nghèo bền vững

Giai đoạn 2021-2025, chương trình chuyển hướng từ hỗ trợ “cho ăn” sang “cho cần câu”, đã triển khai hơn 10.500 mô hình sinh kế tại cộng đồng. Trong đó, 6.174 dự án hỗ trợ sản xuất nông nghiệp giúp hơn 99.000 hộ cải thiện phương thức canh tác, ứng dụng công nghệ cao, nâng năng suất và chất lượng sản phẩm.

Theo ông Đinh Văn Thơ, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lào Cai, các hợp tác xã, tổ hợp tác, hội nhóm đóng vai trò then chốt trong các dự án cộng đồng, vừa tạo việc làm tại chỗ vừa đảm bảo thu nhập ổn định cho người dân.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Ninh - ông Nguyễn Công Trình cũng khẳng định, giai đoạn tới, địa phương sẽ đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển mô hình sản xuất – kinh doanh tại chỗ, đặc biệt là ngành nghề truyền thống và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, qua đó mở rộng cơ hội thoát nghèo bền vững.

Từ quả táo mèo ở Lào Cai đến vùng rau quả tại Bắc Ninh, câu chuyện tạo đầu ra đã trở thành chìa khóa giúp nông dân giảm nghèo bền vững. Thực tế cho thấy, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị không chỉ giúp khai thác hiệu quả lợi thế địa phương, thúc đẩy chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm theo hướng hữu cơ, an toàn, mà còn gia tăng giá trị nông sản với nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc. Đây chính là nền tảng để người dân tự tin vươn lên, khẳng định khát vọng thoát nghèo bằng chính sức mình.

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đang chuyển hướng từ hỗ trợ trực tiếp sang xây dựng mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn với tiêu thụ sản phẩm. Cách làm này không chỉ mở ra đầu ra ổn định cho nông sản mà còn tạo sinh kế lâu dài, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững.

Nguyễn Hạnh