Đóng

Longform | Nông sản vùng dân tộc: Khẳng định bản sắc, chinh phục thị trường toàn cầu: Bài 1

Trên những vùng núi cao, cánh cửa xuất khẩu đang mở rộng cho cà phê, tiêu, gia vị, gạo đặc sản vùng cao, bằng chất lượng, câu chuyện và thương hiệu.

 

Ở miền núi phía Bắc, quế và hồi không chỉ là cây trồng, mà là ký ức văn hóa, là sinh kế của bao thế hệ đồng bào Tày, Nùng, Dao, Mông. Từ những sườn đồi ngát hương sau vụ thu, những bó vỏ quế, chùm hoa hồi từng theo đường thương lái sang biên giới, lên xuống theo con sóng giá thất thường.

Trên bức tranh nhiều sắc màu ấy, Công ty CP Quế hồi Việt Nam (Vinasamex) chọn một bước đi khác khiến bức tranh hoàn toàn thay đổi: nương quế, đồi hồi nói riêng và nông sản vùng dân tộc nói chung không còn là nguồn thu mong manh, mà trở thành nền tảng của một chuỗi giá trị hướng tới các thị trường khó tính. Điểm mấu chốt là tư duy “làm nông nghiệp toàn cầu” ngay tại bản làng: chuẩn hóa canh tác theo tiêu chuẩn quốc tế, truy xuất minh bạch, chế biến sâu và xây dựng thương hiệu để đi vào các hệ thống phân phối chính quy.

 

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, bà Nguyễn Thị Huyền - Tổng Giám đốc Vinasamex cho biết, muốn hàng hóa đứng vững ở châu Âu, Bắc Mỹ hay Nhật Bản, không thể chỉ dựa vào chất lượng cảm tính. Vinasamex chọn con đường bền bỉ nhất: đồng hành với người trồng, kiên nhẫn thay đổi từng thói quen canh tác, từ cách chuẩn bị giống, bón phân hữu cơ, thu hái đúng độ chín, phơi sấy chuẩn vệ sinh, đến việc ghi chép nhật ký để phục vụ truy xuất nguồn gốc. Những buổi tập huấn lặp lại nhiều lần trong năm, các chuyến đánh giá nội bộ và bên thứ ba, các đợt nâng cấp nhà xưởng và kho bảo quản… là công việc âm thầm nhưng quyết định kết quả cuối cùng: sản phẩm đạt các chứng nhận cần thiết để đi thẳng vào siêu thị, không phải gửi gắm dưới tên thương hiệu nước ngoài.

“Ngay từ khi bắt đầu, chúng tôi đã xác định phải sản xuất theo chuẩn quốc tế. Vinasamex là một trong những doanh nghiệp tiên phong áp dụng mô hình hữu cơ, với những chứng nhận quốc tế uy tín như EU Organic, USDA Organic và các tiêu chuẩn về thương mại công bằng. Điều này giúp sản phẩm quế hồi Việt Nam không chỉ thâm nhập mà còn đứng vững ở những thị trường xuất khẩu khắt khe nhất như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản” – bà Nguyễn Thị Huyền chia sẻ.

 

Đối với người dân liên kết với Vinasamex, khoảng 10 năm về trước một hộ nông dân sẽ thu được khoảng 10 triệu đồng/ha/năm thì tính đến hiện tại thu nhập của một hộ nông dân sẽ khoảng 120-150 triệu đồng trên/ha/năm, tức là cao gấp hơn chục lần trước đây. Khi người dân thấy rằng một lô quế - hồi hữu cơ được trả giá cao hơn, hợp đồng ổn định hơn, rủi ro bị trả hàng ít hơn, họ chủ động bước vào quỹ đạo mới. Thu nhập tốt lên kéo theo thay đổi tích cực về đời sống, giáo dục con trẻ và gìn giữ rừng. Đó là giá trị xã hội song hành với giá trị thương mại.

 

Nếu miền núi phía Bắc có quế, hồi thì Tây Nguyên và một phần miền núi phía Bắc có cà phê đặc sản. Người tiêu dùng Scandinavia đã quá hiểu Brazil, Ethiopia; họ tìm kiếm trải nghiệm mới. Một ly Arabica từ cao nguyên đá lạnh, có hương trái cây trong trẻo; hay Robusta đặc sản với thân vị đậm sâu, ít đắng gắt nhờ chế biến ướt và rang phù hợp… là thứ “điểm chạm” tạo tò mò. Song để biến khác biệt thành giá trị, ngành cà phê vùng cao cần cùng một công thức: vùng nguyên liệu theo lô/vùng nhỏ có hồ sơ truy xuất; sơ chế - rang xay - đóng gói đạt chuẩn; và kể câu chuyện địa phương bằng ngôn ngữ thị trường đích, từ nhãn chai đến website. Khi nhà rang có thể quét mã và thấy ngay nông trại, độ cao, giống, ngày thu hoạch, hồ sơ cảm quan, họ sẵn sàng trả thêm vì minh bạch.

 

Trong bức tranh sống động ấy, cà phê Vĩnh Hiệp cũng là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của việc xây dựng chuỗi liên kết sản xuất cà phê theo hướng xanh hoá. Ông Thái Như Hiệp - Chủ tịch Công ty TNHH Vĩnh Hiệp cho biết, trong hành trình phát triển của mình, Vĩnh Hiệp xác định xây dựng chuỗi cung ứng cà phê bền vững là con đường duy nhất để đi lâu dài. Chúng tôi đã hợp tác sâu rộng với bà con nông dân, đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số Ê Đê, Ba Na tại khu vực Tây Nguyên để cùng nhau thay đổi tư duy sản xuất, tiếp cận phương pháp canh tác mới, và chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp xanh, nông nghiệp số. Không đơn thuần là giúp họ tiêu thụ cà phê, Vĩnh Hiệp cùng bà con xây dựng nền tảng sản xuất “cứng”: từ quy trình canh tác hữu cơ, áp dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc, đến việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Đây là cách để cà phê Việt Nam, đặc biệt là cà phê Gia Lai, có thể tham gia thị trường quốc tế với tâm thế chủ động, tự tin.

“Chúng tôi luôn nhấn mạnh yếu tố bền vững: không phá rừng để trồng cà phê, kiểm soát phát thải carbon trong sản xuất”, ông Thái Như Hiệp chia sẻ.

 

Với hạt tiêu, Việt Nam là cường quốc tiêu và nhiều gia vị, nhưng càng mạnh về sản lượng càng dễ “ngủ quên” trong vai trò cung ứng nguyên liệu. Muốn đổi vị thế, cần nâng khâu sau thu hoạch: phân loại theo kích thước - độ ẩm - tiêu chuẩn vệ sinh; phát triển các dòng sản phẩm chuyên biệt như tiêu trắng, tiêu xanh muối, tiêu ngâm, tiêu xay theo profile cảm quan; tăng tỷ trọng tinh dầu, oleoresin, chiết xuất phục vụ ngành thực phẩm - dược phẩm. Đi cùng là chiến lược thương hiệu: không bán tiêu vô danh, mà bán “tiêu vùng núi X” với hương cay ấm, câu chuyện thổ nhưỡng, tiêu chuẩn bền vững và cam kết với nông dân.

Hoặc ở miền núi phía Bắc, gạo Séng Cù, nếp Tú Lệ, tám Điện Biên gói trong chúng mùi mạ non, gió núi và kỹ nghệ canh tác trên ruộng bậc thang. Ở phân khúc đại trà, gạo Việt cạnh tranh bằng giá; nhưng ở phân khúc quà tặng, ẩm thực trải nghiệm hay nhà hàng cao cấp, gạo đặc sản vùng cao có “linh hồn” để kể: giống bản địa, canh tác thân thiện, cộng đồng được hưởng lợi. Để đi ra, cần chuẩn hóa quy mô lô hàng; kiểm soát tồn dư, vi sinh; đóng gói hút khí - chống ẩm; thiết kế nhãn kể chuyện địa lý - con người và kết nối với nhà nhập khẩu ngách châu Âu, Nhật, Mỹ. Khi định vị đúng, một cân gạo có thể bán như một trải nghiệm, chứ không còn là hàng hóa vô danh.

 

Bài học từ những thành công kể trên cho thấy, hành trình của quế hồi, cà phê là mô hình “ba trụ cột”: vùng nguyên liệu đạt chuẩn; chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm (tinh dầu, bột, chiết xuất, quà tặng giá trị gia tăng); và thương hiệu gắn câu chuyện địa phương. Khi ba trụ cột cùng vững, hàng hóa không chỉ thoát kiếp “bán thô” mà còn có chỗ đứng riêng trên kệ quốc tế. Từ góc nhìn thị trường, điều này giúp doanh nghiệp thoát lệ thuộc vào trung gian, đàm phán giá tốt hơn, trong khi người trồng được chia phần xứng đáng từ giá trị gia tăng.

 

Sức bật của quế – hồi gợi mở hướng phát triển cho cả hệ gia vị vùng cao. Không ít sản phẩm bản địa đang chờ “đánh thức”: thảo quả, mắc khén, hạt dổi, nghệ, gừng, sả, tiêu bản địa, các loại trà dược liệu từ núi rừng. Thị trường đang săn tìm những hương vị khác biệt đi cùng câu chuyện bền vững, truy xuất rõ ràng và tác động tích cực tới cộng đồng. Khi kỹ thuật sơ chế, sấy, nghiền, tách tinh dầu được chuẩn hóa, khi bao bì, nhãn mác và thông tin chứng nhận được trình bày chuyên nghiệp, những gia vị tưởng chừng nhỏ bé có thể đi xa, đứng cạnh các thương hiệu quốc tế mà không bị “pha loãng” bản sắc.

Chia sẻ kinh nghiệm từ Bắc Âu – một trong những thị trường tiềm năng nhất cho nông sản miền núi, bà Nguyễn Thị Hoàng Thuý, Vụ trưởng, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Thuỵ Điển, kiêm nhiệm thị trường Bắc Âu cho biết, giống như nhiều thị trường “phân khúc cao”, thị trường Bắc Âu khắt khe nhưng “công bằng”: chuẩn nào cũng công bố rõ; nhà bán lẻ ưu tiên minh bạch, trách nhiệm xã hội, bao bì xanh.

Thực tế, các sản phẩm thế mạnh của Việt Nam như cà phê, hạt tiêu, gia vị đã hiện diện tại thị trường Bắc Âu từ lâu, nhưng phần lớn mới tham gia ở khâu trung gian của chuỗi cung ứng toàn cầu. Nói một cách khác, sản phẩm của chúng ta thường đi qua các tập đoàn rang xay, chế biến hoặc nhà phân phối châu Âu, rồi mới đến tay người tiêu dùng dưới một thương hiệu khác. Điều này khiến giá trị gia tăng mà nông dân và doanh nghiệp Việt Nam nhận được còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng.

 

Tuy nhiên, bức tranh ấy cũng bắt đầu xuất hiện những gam màu tích cực: cà phê đặc sản của Việt Nam đã có mặt tại các quán rang xay thủ công; một số doanh nghiệp tiêu và gia vị của ta đã thâm nhập được vào kênh phân phối bền vững và công bằng. Đây có thể coi là “cửa ngõ hẹp” nhưng rất quan trọng, từng bước khẳng định thương hiệu Việt Nam tại thị trường này.

Với nông sản vùng cao, đây là “sân chơi” hợp căn cơ: quy mô lô hàng vừa phải, đề cao câu chuyện địa phương, trọng yếu tố hữu cơ và thương mại công bằng. Khi đã chinh phục được người tiêu dùng ở đây, hiệu ứng lan tỏa sang Tây Âu là tất yếu vì hệ thống bán lẻ và tiêu chuẩn có tính tham chiếu lẫn nhau. Điều kiện tiên quyết vẫn là kỷ luật vận hành: chất lượng ổn định qua từng lô, chứng chỉ còn hiệu lực, hồ sơ truy xuất đầy đủ, phản hồi khách hàng nhanh, bao bì – nhãn mác đúng luật môi trường.

Một doanh nghiệp không thể thay đổi bức tranh toàn ngành; nhưng một doanh nghiệp có thể mở một lối đi, chứng minh khả năng và tạo niềm tin cho chuỗi cung ứng. Từ quế, hồi, chúng ta nhìn thấy khung năng lực có thể “bê” sang cà phê, tiêu, gạo: tiêu chuẩn hóa vùng trồng; nâng cấp sơ chế - chế biến; kể chuyện thương hiệu theo ngôn ngữ của từng thị trường; và đặt người trồng vào trung tâm lợi ích. Khi các mảnh ghép được xâu chuỗi, nông sản vùng cao không còn là “nông sản của bản”, mà trở thành sứ giả văn hóa - kinh tế của Việt Nam.

Nội dung: Bảo Ngọc; Đồ hoạ: Ngọc Lê