Trong bức tranh phát triển kinh tế nông nghiệp hiện nay, tiêu thụ nông sản vẫn là thách thức lớn, đặc biệt đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa,…nơi sinh kế của hàng triệu đồng bào dân tộc thiểu số gắn liền với những sản phẩm bản địa. Khi thương mại điện tử (TMĐT) trở thành xu thế tất yếu của nền kinh tế hiện đại, hàng hóa vùng cao cũng bắt đầu tìm đường “lên sàn”, bước vào không gian số rộng mở.
Nhưng giữa cơ hội và thực tế vẫn còn khoảng cách dài. Ở nhiều địa phương, hạ tầng số còn yếu, đường truyền Internet chập chờn, chi phí vận chuyển cao, trong khi người dân chưa quen với kỹ năng kinh doanh trực tuyến. Nhiều sản phẩm nông sản, đặc sản vùng cao dù có chất lượng tốt nhưng chưa được chuẩn hóa mẫu mã, bao bì, thông tin truy xuất. Thương mại điện tử đòi hỏi sự chuyên nghiệp, trong khi phần lớn hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp vùng cao vẫn đang trong giai đoạn làm quen.
Tại Bắc Giang, ông Giáp Quý Cường, Giám đốc HTX Nông nghiệp Xanh Yên Thế, cho biết việc đưa sản phẩm của bà con lên sàn TMĐT không hề dễ dàng. “Bà con rất muốn bán hàng trực tuyến, nhưng thiếu kỹ năng công nghệ, thiếu người hướng dẫn. Nếu có sàn TMĐT chung cho các HTX, có lớp tập huấn cụ thể và sự hỗ trợ kỹ thuật, việc tiêu thụ sẽ thuận lợi hơn,” ông chia sẻ.
Cùng chung khó khăn ấy, bà Nguyễn Thị Xuân Mừng, Phó Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất Sâm Việt Nam, cho biết doanh nghiệp của bà đã sản xuất nhiều dòng sản phẩm từ sâm như nước sâm, trà sâm, cao sâm, miến sâm, dầu gội thảo mộc... Sản phẩm được giới thiệu tại các điểm OCOP, hội chợ trong và ngoài tỉnh, đồng thời được đưa lên các sàn thương mại điện tử , fanpage và website. Tuy nhiên, kết quả vẫn còn hạn chế. “Thương mại điện tử đòi hỏi chi phí lớn cho hình ảnh, quảng bá, logistics và kỹ năng số. Với doanh nghiệp nhỏ, đó là thách thức không nhỏ,” bà nói.
Những chia sẻ từ thực tiễn cho thấy, người dân và doanh nghiệp vùng cao không ngại thay đổi, nhưng họ đang thiếu một hệ sinh thái hỗ trợ đủ mạnh. Muốn sản phẩm vùng dân tộc thiểu số có thể vươn xa, cần cả nền tảng công nghệ, hạ tầng logistics, nhân lực am hiểu thị trường và đặc biệt là vai trò “bà đỡ” của chính quyền địa phương.
Tại Bắc Ninh, địa phương được xem là điểm sáng trong việc kết hợp giữa xúc tiến thương mại truyền thống và ứng dụng công nghệ số, chính quyền đã chủ động vào cuộc để giúp nông dân, HTX và doanh nghiệp tiếp cận kênh bán hàng hiện đại.
Ông Nguyễn Văn Phương, Phó Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Bắc Ninh, cho biết: “Tiêu thụ nông sản, đặc biệt là hàng hóa của bà con vùng sâu, vùng xa, là nhiệm vụ trọng tâm. Khi sản phẩm được tiêu thụ tốt, giá bán thuận lợi, đó không chỉ là lợi ích kinh tế mà còn là động lực phát triển sinh kế.”
Theo ông Phương, Sở Công Thương Bắc Ninh đã tham mưu tỉnh xây dựng các kế hoạch xúc tiến thương mại bài bản, tập trung vào việc khảo sát thị trường, hướng dẫn sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng, và kết nối với hệ thống phân phối hiện đại. Cùng với đó, tỉnh đã đưa sản phẩm nông dân lên sàn thương mại điện tử ; tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng livestream, marketing số và truy xuất nguồn gốc.
“Chúng tôi giúp người dân không chỉ biết bán hàng, mà còn biết kể câu chuyện về sản phẩm của mình. Khi nông dân tự tin giới thiệu sản phẩm qua các kênh trực tuyến, họ thực sự trở thành chủ thể trong nền kinh tế số,” ông Phương chia sẻ thêm.
Cách làm này không chỉ giúp sản phẩm Bắc Ninh được quảng bá rộng rãi, mà còn mở ra tư duy mới về chuyển đổi số trong nông nghiệp. Từ việc học cách quay video, viết mô tả sản phẩm, tương tác với khách hàng đến tham gia các gian hàng số, bà con nông dân đã từng bước tiếp cận phương thức kinh doanh hiện đại. Dù còn khó khăn, nhưng bước chuyển ấy mang tính nền tảng cho quá trình phát triển lâu dài.
Theo đại diện Sở Công Thương, thách thức hiện nay không nằm ở việc “lên sàn”, mà ở khả năng trụ vững và xây dựng thương hiệu. Nhiều sản phẩm chưa có tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc, chưa đầu tư bao bì, chưa có chứng nhận OCOP, đó là những rào cản khiến sản phẩm vùng cao khó cạnh tranh trên sàn số. Chính quyền địa phương đang phối hợp với doanh nghiệp logistics, sàn thương mại điện tử và các đơn vị truyền thông để hình thành chuỗi hỗ trợ khép kín, giúp nông dân không chỉ bán hàng, mà còn phát triển thương hiệu lâu dài.
Những nỗ lực của địa phương chỉ là một phần trong bức tranh lớn mà Chính phủ và Bộ Công Thương đang vẽ nên cho nền kinh tế số quốc gia. Việc đưa sản phẩm vùng dân tộc thiểu số lên sàn TMĐT đã được xác định là một trong những hướng đi chiến lược trong Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (Quyết định 1719/QĐ-TTg).
Song song với đó, Bộ Công Thương - cơ quan chủ quản lĩnh vực thương mại đã ban hành Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2026-2030 (Quyết định 1568/QĐ-BCT), tập trung hỗ trợ địa phương xây dựng “gian hàng Việt trực tuyến”, tích hợp truy xuất nguồn gốc và nâng cao năng lực số cho doanh nghiệp, HTX. Mục tiêu là hình thành hệ sinh thái TMĐT bền vững, nơi sản phẩm vùng cao có thể cạnh tranh sòng phẳng trên nền tảng số.
Theo các chuyên gia, thương mại điện tử vùng dân tộc thiểu số chỉ thực sự hiệu quả khi chính sách được triển khai gắn liền với đào tạo, hạ tầng và truyền thông. Cần có cơ chế để doanh nghiệp và HTX dễ dàng tiếp cận vốn đầu tư, hỗ trợ vận chuyển, quảng bá, đồng thời tổ chức các khóa huấn luyện kỹ năng kinh doanh trực tuyến cho cán bộ và người dân.
Cùng với đó, việc phát triển hạ tầng số ở vùng sâu vùng xa cần được coi là điều kiện tiên quyết. Khi đường truyền ổn định, logistics thuận lợi và thanh toán điện tử phổ cập, nông sản vùng cao mới có thể vươn ra thị trường lớn hơn trong nước và quốc tế.
Thương mại điện tử không chỉ là công cụ tiêu thụ, mà còn là kênh quan trọng giúp sản phẩm vùng cao xây dựng bản sắc và thương hiệu số. Mỗi sản phẩm OCOP không chỉ đại diện cho giá trị kinh tế, mà còn phản ánh văn hóa, thói quen và tinh thần lao động của người dân vùng cao.
Khi người nông dân biết quay video giới thiệu sản phẩm, khi HTX có gian hàng trực tuyến với mã QR truy xuất nguồn gốc, khi doanh nghiệp vùng cao đầu tư bao bì và câu chuyện thương hiệu, đó là lúc họ đang bước vào sân chơi bình đẳng hơn của nền kinh tế số.
Từ chỗ “bán hàng qua thương lái”, giờ đây bà con có thể trực tiếp tương tác với người tiêu dùng ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, thậm chí cả nước ngoài. Mỗi đơn hàng không chỉ mang lại thu nhập, mà còn khẳng định giá trị của sản phẩm Việt trên thị trường số.
Khi thương mại điện tử đến được với bản làng, không chỉ sản phẩm được bán, mà câu chuyện về vùng đất, con người, văn hóa cũng được lan tỏa. Đó là giá trị bền vững nhất của quá trình chuyển đổi số ở vùng dân tộc thiểu số.
Hành trình ấy có thể bắt đầu từ những gian hàng nhỏ, những buổi livestream còn vụng về, nhưng qua đó, người nông dân đang học cách bước vào nền kinh tế mới, nơi công nghệ, sáng tạo và bản sắc cùng tồn tại.
Để thương mại điện tử thực sự trở thành công cụ phát triển sinh kế, cần tiếp tục đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực và hoàn thiện cơ chế chính sách. Khi Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp dẫn dắt, HTX và người dân làm chủ, nông sản vùng cao sẽ không chỉ “lên sàn”, mà còn vươn tầm, trở thành thương hiệu văn hóa của Việt Nam trong thời đại số.